"CẢ KINH THÁNH LÀ BỞI ĐỨC CHÚA TRỜI SOI DẪN ... HẦU CHO NGƯỜI THUỘC VỀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐƯỢC TRỌN VẸN VÀ SẮM SẴN ĐỂ LÀM MỌI VIỆC LÀNH"
II Timothy 3:16a, 17
  

HỘI TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM VIỆT NAM
(Vietnamese Full Gospel Missions)
TRƯỜNG KINH THÁNH TẠI GIA
(Home Bible School) www.HomeBibleSchoolVietnam.com

Học Báo:
"SỨ GIẢ TÌNH YÊU"

(The Love Ambassadors)
P.O.Box 565, Westminster, CA 92684-USA
Email: VNFGMissions@Yahoo.com

TIẾNG NÓI CHÂN LÝ
(The Voice of Truth)
www.TiengNoiChanLy.com
HỘI THÁNH PHÚC ÂM VIỆT NAM
tại Westminster
(Vietnamese Full Gospel Church)
14381 Magnolia Ave. Westminster, CA 92683-USA
ĐỘC QUYỀN PHIÊN DỊCH VÀ PHỔ DỤNG
© 1979, 1996 GLOBAL YOUTH EVANGELISM
P.O. Box 1019, Orland, CA 95963 - USA
(Giữ bản quyền. Cấm in sao lại từng phần hay toàn bản dưới mọi hình thức hoặc bằng mọi phương tiện).

  

THỐNG KÊ

Đã truy cập:7530965
Đang truy cập:431

GIAO ƯỚC MỚI 5 & 6

accutane without blood tests

accutane without side effects

seroquel

seroquel

lamisil

lamisil annhil.nl

 

CHƯƠNG NĂM

GIAO ƯỚC MỚI VÀ CHÚC THƯ

Trong chương ba, chúng tôi đã nêu lên rằng trong giao ước mới có những lời hứa cũng như những sự kiện. Chúng tôi cũng đã nêu lên rằng trong nguyên văn, chữ “chúc thư” trong Hê-bơ-rơ 9:16 và chữ “giao ước” là cùng một chữ. “Giao ước” được đề cập vài lần trong sách Hê-bơ-rơ. Thật ra, chúng ta có thể nói rằng sách Hê-bơ-rơ có một mục đích đặc biệt là bày tỏ cho chúng ta biết giao ước mới là gì. Riêng các chương từ sáu đến chín của sách Hê-bơ-rơ đặc biệt chú trọng đến vấn đề ấy. Bây giờ, trong chương này, chúng ta đến với vấn đề giao ước mới và chúc thư, hay di chúc.

Hê-bơ-rơ 9:15-17 chép: “Nhơn cớ đó Ngài là Đấng trung bảo của giao ước mới, hầu cho như đã có sự chết cứu chuộc các sự quá phạm dưới giao ước thứ nhất, thì những kẻ được kêu gọi có thể nhận lãnh được cơ nghiệp đời đời đã hứa. Vì hễ có chúc thơ, thì cần phải đợi kẻ trối chết đã. Vì người trối chết rồi, thì chúc thư mới có hiệu lực. Nếu người trối còn sống, thì chúc thư đâu có hiệu lực gì ư?” Chữ “Đấng trung bảo” trong câu 15 hàm ý một người đứng bảo lãnh để có được điều gì đó mà nếu thiếu người ấy thì không được. Theo ý nghĩa ấy, “Đấng trung bảo” cũng có thể được dịch là “Đấng thi hành”. “Chúc thư” trong câu 16 và 17 là y như “giao ước”. Qua các câu Kinh Thánh ấy, chúng ta thấy bốn điều quan trọng: (1) vừa là một giao ước vừa là một chúc thư, (2) Người lập chúc thư, hay Người Trối, (3) Đấng thi hành chúc thư, và (4) hiệu lực của chúc thư.

VỪA LÀ MỘT GIAO ƯỚC VỪA LÀ MỘT CHÚC THƯ

Tại sao chúng ta nói giao ước cũng là chúc thư? Đức Chúa Trời hay Chúa Jesus đã lập giao ước với chúng ta? Theo Lời Đức Chúa Trời, ấy là Đức Chúa Trời đã lập giao ước với chúng ta chứ không phải Chúa Jesus. Đức Chúa Trời là bên lập giao ước đứng đối diện với chúng ta. Nhưng Chúa Jesus là Đấng hoàn thành giao ước, vì giao ước ấy được lập bằng huyết Chúa. Về phía Đức Chúa Trời, Ngài đã lập một giao ước với chúng ta; nhưng về phía Chúa Jesus, ấy là qua cái chết của Ngài mà Ngài để lại một cơ nghiệp đời đời cho chúng ta (Hê. 9:15). Vì thế, đó là một chúc thư, hay một di chúc. Muốn một giao ước trở nên hiệu lực thì người lập giao ước không cần phải chết, nhưng muốn một chúc thư trở nên hiệu lực thì đòi hỏi người trối phải chết. Qua đó, chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời là Đấng đã lập giao ước với chúng ta, nhưng Chúa Jesus là Đấng để lại chúc thư, di sản, cho chúng ta qua cái chết của Ngài.

Về mặt nội dung thì giao ước mới cũng y như chúc thư. Về mặt cơ nghiệp của chúng ta, giao ước mới và chúc thư cũng như nhau, ngoại trừ khi diễn đạt thì thấy có hai phía: phía Đức Chúa Trời và phía Chúa. Về phía Đức Chúa Trời, Ngài đã lập một giao ước với chúng ta; nhưng về phía Chúa Jesus thì Ngài đã để lại cho chúng ta một chúc thư. Chúng tôi đã nêu lên rằng giao ước mới bao gồm ba phần chính: sự tẩy sạch, sự sống cùng quyền năng, và sự hiểu biết bề trong. Về phía Đức Chúa Trời lập một giao ước với chúng ta, thì chính Đức Chúa Trời là Đấng hứa tha thứ những tội lỗi của chúng ta và tẩy sạch chúng ta; chính Đức Chúa Trời là Đấng hứa truyền sự sống và quyền năng cho chúng ta; và cũng chính Đức Chúa Trời là Đấng hứa ban cho chúng ta sự hiểu biết ở bên trong, tức sự hiểu biết sâu xa hơn, về chính Ngài. Nhưng về phía Chúa Jesus để lại chúc thư của Ngài, thì Ngài chính là Đấng đã để lại cho chúng ta sự rửa sạch, có được qua sự tha thứ tội lỗi; chính Ngài là Đấng đã để lại cho chúng ta sự sống và quyền năng; và Ngài cũng là Đấng đã để lại cho chúng ta sự hiểu biết về chính Đức Chúa Trời.

CHÚA JESUS LÀ NGƯỜI LẬP CHÚC THƯ

Chúng tôi đã nêu lên trước đây rằng vào thời Giê-rê-mi giao ước mới đã được đề cập. Tuy nhiên, trong suốt mấy trăm năm, không ai lưu ý đến vấn đề này. Thế rồi một ngày kia, giao ước mới bất chợt lại được nêu lên. Theo 1 Cô-rin-tô 11:23-25, vào đêm Chúa bị phản, Ngài “lấy bánh, cảm tạ, rồi bẻ ra, mà phán rằng: Đây là thân thể Ta vì các ngươi mà bẻ ra. Hãy làm điều nầy để kỷ niệm Ta. Cũng một thể ấy, sau bữa tối Ngài lấy chén, mà phán rằng: Chén nầy là giao ước mới trong huyết Ta”. Giao ước mới ở đây chính là giao ước mới rất vinh hiển được đề cập trong sách Giê-rê-mi. Bây giờ, qua huyết của Chúa Jesus, giao ước ấy đã trở nên cơ nghiệp của chúng ta để chúng ta có thể vui hưởng toàn bộ nội dung của giao ước ấy. Điều này cho chúng ta thấy rằng giao ước mới là chúc thư, hay di chúc, của Chúa. Chúa chúng ta là Người lập chúc thư. Ngài đã ban cho chúng ta cơ nghiệp thuộc linh trong di chúc của Ngài. Những gì Ngài đã ban cho chúng ta là những điều được bao gồm trong giao ước mới và được thấy trong Hê-bơ-rơ 8:10-12. Đó là những điều Chúa đã để lại cho chúng ta trong di chúc của Ngài. Khi thừa hưởng điều gì qua một di chúc, chúng ta nhận lãnh điều vốn không phải là của mình. Qua giao ước mới, chúng ta nhận được điều không phải nhờ việc làm mà có được, mà là điều đã được Chúa Jesus để lại cho chúng ta.

CHÚA JESUS LÀ ĐẤNG THI HÀNH CHÚC THƯ

Chúa chúng ta không những là Người lập chúc thư, mà còn là Đấng thi hành chúc thư, hay di chúc, vì “Ngài là Đấng trung bảo của giao ước mới” (Hê. 9:15). Chúng tôi đã nêu lên trước đây rằng với tư cách là Đấng trung bảo của giao ước mới, Ngài cũng là Đấng thi hành. Chúng ta đều biết rằng khi viết một di chúc thì điều quan trọng là phải có những nhân chứng, nhưng thậm chí điều quan trọng hơn là phải có một người có thể thi hành di chúc ấy. Khi chỉ có chúc thư mà thiếu người thi hành, thì chúc thư ấy vẫn vô hiệu. Chúng ta ngợi khen Đức Chúa Trời vì Chúa Jesus không những là Đấng lập di chúc, mà còn là Đấng thi hành di chúc. Nói về sự chết thì Chúa Jesus là Người lập chúc thư; nhưng nói về sự sống lại thì Ngài là Đấng thi hành di chúc. Chúa Jesus đã đem huyết vào Nơi Chí Thánh (Hê. 9:12), cho thấy Người lập chúc thư đã chết; sau đó, Chúa Jesus trở nên Đấng trung bảo của giao ước mới trên các từng trời, cho thấy Ngài là Đấng có quyền năng thi hành chúc thư. Chúa chúng ta thực sự xứng đáng được ngợi khen! Ngài đã đạt được một chức vụ tuyệt hảo hơn, vì Ngài đã trở nên Đấng thi hành giao ước tốt hơn (Hê. 8:6).

Chúng ta được cho biết trong Hê-bơ-rơ 12:22-24 rằng chúng ta “đã đến núi Si-ôn, đến thành của Đức Chúa Trời hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời, đến muôn vàn thiên sứ, đến tổng hội và Hội thánh của những con đầu lòng được ghi tên trên trời, đến Đức Chúa Trời là Quan án của mọi người, đến các linh của người nghĩa được trọn vẹn, đến Jesus là Đấng trung bảo của giao ước mới, và đến huyết rảy ra, là huyết nói tốt hơn huyết của A-bên vậy”. Phân đoạn này cho biết rằng chúng ta không đến núi có thể rờ được (c. 18), mà đến núi Si-ôn, đến nơi nhóm họp cho Đức Chúa Trời, đến các thiên sứ, đến những người công chính được sống lại, và đến các con đầu lòng. Đó cũng là nơi ở của Chúa Jesus, tức Đấng trung bảo của giao ước mới. Trên các từng trời, Chúa không những là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm, mà còn là Đấng trung bảo, hay Đấng thi hành giao ước mới, để giao ước ấy có thể trở nên công hiệu bên trong chúng ta. Chúa bảo đảm là công hiệu của giao ước được thiết lập bằng huyết của Ngài sẽ trở thành hiện thực bên trong chúng ta, khiến chúng ta có thể có sự sống và quyền năng để thuận phục Đức Chúa Trời, có một sự hiểu biết sâu xa hơn về Đức Chúa Trời, và được tha thứ những tội lỗi để không còn bị cáo trách trong lương tâm mình. Ngài là Đấng trung bảo của những điều ấy. Theo sự thành tín và công chính của Đức Chúa Trời, giao ước ấy không thể nào bị vi phạm hay thu hồi lại. Theo quyền năng phục sinh của Chúa, giao ước ấy mãi mãi có hiệu lực. Chúng ta có thể nói: “Ha-lê-lu-gia! Chúa đã để lại cho chúng ta một chúc thư phong phú như vậy! Ngài cũng là Đấng có quyền năng thi hành chúc thư ấy!”

HIỆU LỰC CỦA CHÚC THƯ

Hê-bơ-rơ 9:16-17 cho chúng ta biết rằng “vì hễ có chúc thơ, thì cần phải đợi kẻ trối chết đã. Vì người trối chết rồi, thì chúc thơ mới có hiệu lực. Nếu người trối còn sống, thì chúc thơ đâu có hiệu lực gì ư?” Một ngày kia, Chúa chúng ta bảo các môn đồ Ngài: “Chén nầy là giao ước mới trong huyết Ta” (Lu. 22:20). Điều này có nghĩa là Đấng lập di chúc đã chết, và giao ước đã bắt đầu có hiệu lực. Khi Chúa Jesus đem huyết vào Nơi Chí Thánh (Hê. 9:12), Ngài nói với Đức Chúa Trời rằng Đấng lập chúc thư đã chết. Thậm chí chúng ta là những người đang sống cũng nhận biết rằng Đấng lập chúc thư đã chết, vì mỗi khi ăn bánh và uống chén, chúng ta rao giảng sự chết của Chúa (1 Cô. 11:26). “Rao giảng” cũng có thể được dịch là “tuyên bố”. Mỗi khi ăn bánh và uống chén, chúng ta tuyên bố Chúa đã chết. Người trối đã chết, và bây giờ chúc thư hay di chúc trở nên có hiệu lực.

Trách nhiệm của Đấng thi hành là làm cho di chúc có hiệu lực. Chúng ta có quyền nhận lãnh mọi điều khoản trong di chúc. Nếu Đấng thi hành trung tín thì chúng ta sẽ nhận được tất cả những điều khoản trong di chúc, nhưng nếu Đấng thi hành không trung tín thì chúng ta có thể không nhận được di sản mà mình có quyền hưởng. Vì Chúa chúng ta là một Đấng thi hành có trách nhiệm, nên chúng ta sẽ nhận được toàn bộ di sản trong chúc thư. Như chúng tôi đã đề cập trước đây, những gì Chúa để lại cho chúng ta trong chúc thư của Ngài gồm có ba điều chính: (1) sự tẩy sạch có được qua sự tha thứ tội lỗi, (2) sự sống cùng quyền năng, và (3) sự hiểu biết ở bên trong về Đức Chúa Trời. Ba điều ấy bao gồm tất cả những nhu cầu trong đời sống thuộc linh của chúng ta. Chúa Jesus đã chết và sống lại vì chúng ta. Không những Ngài để lại cho chúng ta một chúc thư, mà Ngài còn là Đấng thi hành chúc thư ấy. Vì vậy, chúng ta không còn phải sống một đời sống nghèo nàn, khô khan và bất lực nữa. Bởi đức tin chúng ta cần phải nhận lãnh tất cả những gì được bao gồm trong chúc thư ấy.

Anh em có bao giờ nghĩ đến lý do tại sao chúng ta chỉ cần báp-têm một lần trong đời là đủ, trong khi cần thường xuyên bẻ bánh để tưởng nhớ Chúa không? Thời các sứ đồ, các tín đồ bẻ bánh để tưởng nhớ Chúa vào ngày đầu tiên của mỗi tuần lễ, vì chén là chén của giao ước mới (Lu. 22:20; 1 Cô. 11:25). Vào mỗi Chúa Nhật, khi uống chén, chúng ta biết mình đang đứng trên một giao ước. Chúa nói: “Chén nầy là giao ước mới trong huyết Ta”; vì vậy, khi chúng ta uống, điều chúng ta thấy không phải là chính nước nho hay rượu nho, mà là giao ước mới Chúa đã thiết lập bằng huyết Ngài. Chúa muốn chúng ta uống tất cả những gì Ngài đã ban cho chúng ta. Vào mỗi Chúa Nhật, chúng ta ôn lại giao ước mới ấy để có thể tưởng nhớ Chúa và nhận lãnh tất cả những gì được bao gồm trong chén ấy. Mỗi khi chúng ta uống chén, Chúa muốn chúng ta ghi nhớ rằng Đức Chúa Trời bị giao ước ấy ràng buộc và Ngài vui lòng ban cho chúng ta tất cả những gì đã hứa trong giao ước. Chúa muốn chúng ta ghi nhớ rằng chúng ta có thể liên tục vui hưởng tất cả những gì được bao gồm trong giao ước mới. Mỗi khi chúng ta tưởng nhớ Chúa trước mặt Đức Chúa Trời, đó là điều Ngài muốn chúng ta thấy. Cả bánh lẫn chén đều là để chúng ta tưởng nhớ Chúa. Chúa đối xử với chúng ta theo những điều khoản trong giao ước. Vì vậy, khi tưởng nhớ Chúa, chúng ta tưởng nhớ Ngài trong giao ước.

Chúc thư có hiệu lực hay không thì không tùy thuộc nơi nỗ lực của chúng ta, mà liên quan mật thiết đến việc chúng ta có biết sự phong phú trong chúc thư, và chúng ta có thể tin hiệu lực của chúc thư và sự kiện Chúa Jesus là Đấng thi hành chúc thư hay không. Bây giờ, chúng tôi sẽ đưa ra vài sự minh họa.

Sự Tha Thứ Tội Lỗi

Hãy lấy sự tha thứ tội lỗi làm ví dụ. Một số người có thể nghĩ: “Tôi đã phạm tội; tôi phải cố gắng hết sức mình và làm lành cho đến khi những tội lỗi của tôi có thể được tha. Nhưng tôi không biết phải mất bao lâu các tội lỗi ấy mới có thể được tha”. Những người khác có thể nghĩ: “Tôi đã phạm tội; tôi cần phải cầu nguyện nhiều lần mãi cho đến ngày tôi cảm thấy bình an. Khi ấy, những tội lỗi của tôi sẽ được tha”. Nhưng trong cả hai trường hợp, chúng ta phải nhận thức rằng đó là những điều tự họ cố gắng làm; đó không phải là điều Chúa đã để lại cho chúng ta trong chúc thư của Ngài.

Chúng ta phải nhận thức rằng những tội lỗi của mình được rửa sạch và tha thứ không phải nhờ chúng ta làm thêm những việc lành, vì làm lành chỉ là bổn phận cơ bản của mình, cũng không phải tùy thuộc nơi việc chúng ta cầu nguyện cho đến khi Đức Chúa Trời quên đi những tội lỗi của chúng ta, vì tội lỗi của chúng ta không bao giờ được xóa bỏ qua lời cầu nguyện của chúng ta, cũng không phải nhờ cầu nguyện cho đến khi chúng ta quên đi những tội lỗi của chúng ta. Chúng ta phải nhận thức rằng vấn đề những tội lỗi của mình được tẩy sạch và tha thứ không thể giải quyết bằng cách nào khác hơn là huyết, vì “ngoài sự đổ huyết thì không có sự tha thứ” tội lỗi (Hê. 9:22). Chính huyết Chúa Jesus đã giải quyết nan đề tội lỗi của chúng ta, và chính huyết Chúa Jesus tẩy sạch chúng ta khỏi tất cả những tội lỗi của mình (1 Gi. 1:7). “Còn nếu chúng ta thừa nhận tội mình, thì Ngài là thành tín công chính, ắt tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi không công chính” (1 Gi. 1:9). Đây là chúc thư, và là giao ước mới. Chúng ta có thể tin điều này không?

Giải Phóng Khỏi Tội

Về vấn đề giải phóng khỏi tội, La Mã 6:14 chép: “Vì tội lỗi không chủ trị anh em được đâu, bởi anh em chẳng ở dưới luật pháp, bèn là ở dưới ân điển”. Một số người nói rằng: “Mặc dầu Kinh Thánh tuyên bố như vậy, nhưng tôi vẫn cảm thấy yếu như sên. Mỗi khi đối diện với cám dỗ, tôi luôn luôn thất bại”. Những người như vậy liên tục cố gắng tự mình làm gì đó và liên tục chiến đấu. Đó không phải là di sản họ tìm thấy trong chúc thư; đó không phải là giao ước mới. Nếu thấy giao ước mới là gì, thì họ sẽ nói: “Ngợi khen Đức Chúa Trời, quyền năng không ra từ tôi; quyền năng là di sản từ Chúa ban cho tôi!” Đó là chúc thư, và là giao ước mới. Chúng ta có thể tin điều đó không?

Biết Và Thực Hiện Ý Muốn Của Đức Chúa Trời

Một số người có thể nói: “Làm sao tôi có thể biết ý muốn của Đức Chúa Trời, và làm sao tôi có thể thực hiện ý muốn của Ngài?” Câu trả lời là cả khả năng nhận biết ý muốn của Đức Chúa Trời lẫn quyền năng thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời đều là di sản trong chúc thư của Chúa Jesus. Ai thuộc về Chúa cũng cần phải vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời. Mọi người thuộc về Chúa không những có khả năng biết ý muốn của Đức Chúa Trời, mà còn có khả năng thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời, vì Chúa đã để lại cho chúng ta trong chúc thư của Ngài khả năng biết Đức Chúa Trời và năng lực thực hiện ý muốn của Ngài (Hê. 13:20-21). Đó là chúc thư, và là giao ước mới. Chúng ta có thể tin điều ấy không?

Cơ nghiệp đời đời mà Chúa đã để lại cho chúng ta thì có tính chất thuộc linh và không thể nào vơi cạn trong cuộc đời chúng ta. Nhưng ngày nay, bao nhiêu người thuộc về Chúa có thể nói rằng họ đã được tẩy sạch và không còn có lương tâm cảm biết tội nữa? (Hê. 10:2). Bao nhiêu người có thể nói rằng luật của Chúa đã được truyền vào trong tâm trí họ và ghi tạc vào tấm lòng họ, và bởi sự sống và quyền năng ở bên trong họ có thể thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời và làm vui lòng Ngài? Ngày nay, bao nhiêu người có thể nói rằng nhờ sự xức dầu của Chúa bên trong mình, chúng ta hoàn toàn không cần đến sự dạy dỗ của người ta để biết Đức Chúa Trời? Thưa anh chị em, tất cả chúng ta đều phải nhận thức rằng qua huyết của Ngài, Chúa đã thiết lập giao ước mới và để lại cho chúng ta chúc thư phong phú làm di sản. Ngài cũng là Đấng thi hành di chúc ấy. Cho nên, nếu có thể nhận lãnh di chúc ấy bằng đức tin, chúng ta sẽ trở nên phong phú và tự do.

“Chúa ơi, nguyện Ngài khiến mỗi người chúng con thấy chúc thư tức giao ước mới là gì để Ngài có thể được hoàn toàn thỏa mãn khi nhìn thấy hiệu lực của giao ước trong huyết Ngài”.

CHƯƠNG SÁU

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NỘI DUNG GIAO ƯỚC MỚI

I. TẨY SẠCH

Bây giờ chúng ta sẽ đặc biệt xem xét những đặc điểm của nội dung giao ước mới. Chúng ta đã thấy trong các chương trước rằng theo Hê-bơ-rơ 8:10-12, nội dung giao ước mới gồm có ba phần chính. Theo mục đích đời đời của Đức Chúa Trời, trước hết Ngài truyền sự sống và quyền năng của Ngài vào trong chúng ta; sau đó Ngài trở nên Đức Chúa Trời của chúng ta trong luật sự sống để chúng ta có thể làm dân của Ngài trong luật sự sống, có thể hiểu biết sâu xa hơn về Ngài, và có thể sống bày tỏ Ngài qua chúng ta. Vì sự tha tội chỉ là một phương thức bởi đó Ngài đạt đến mục đích của mình, nên Kinh Thánh đặt sự tha tội ở sau cùng. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thuộc linh của mình, trước hết chúng ta có được sự tẩy sạch, đó là sự tẩy sạch ra từ sự tha thứ; kế đến chúng ta trở nên dân của Đức Chúa Trời trong luật sự sống, và sau đó chúng ta có được sự hiểu biết sâu xa hơn ở bên trong về Đức Chúa Trời.

Bây giờ chúng ta hãy xem đến vấn đề tha tội. Hê-bơ-rơ 8:10 và 11 tạo thành một dòng tư tưởng liên tục, trong khi câu 12 là một sự bắt đầu khác. Xin lưu ý đến chữ “bởi chưng” trong câu 12. Câu ấy chép: “Bởi chưng Ta sẽ khoan thứ sự không công chính của họ, chẳng nhớ lại tội lỗi của họ nữa”. Chữ “bởi chưng” cho chúng ta thấy rằng việc Đức Chúa Trời khoan thứ sự không công chính của chúng ta và không nhớ lại tội lỗi của chúng ta nữa diễn ra trước khi chúng ta nhận được sự sống. Nói cách khác, sự kiện được đề cập trong câu 12 diễn ra trước sự kiện được nói đến trong câu 10 và 11. Do đó, điều đầu tiên chúng ta phải thấy là tội lỗi của chúng ta được tha thứ và tẩy sạch theo giao ước như thế nào.

Hai Khía Cạnh Của Tội

Theo Kinh Thánh, tội có hai khía cạnh: bản chất tội lỗi và hành vi tội lỗi. Bản chất tội lỗi là tội cư trú trong con người, điều khiển, chi phối và xúi giục con người phạm tội (La. 6:17; 7:20-21). Các hành vi tội lỗi là những tội lỗi được tỏ ra bên ngoài trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi một hành vi tội lỗi của chúng ta đều phải chịu xét xử trước mặt Đức Chúa Trời, dầu đó là nhỏ hay lớn, ẩn giấu hay cố ý. Đức Chúa Trời cũng đã kết án những hành vi tội lỗi ấy (La. 1:32; 6:23). Sự kiện đó khiến lương tâm của chúng ta cảm thấy bứt rứt mỗi khi chúng ta nghĩ về những hành vi ấy. Mỗi khi bị tội ngự trị và vùng vẫy mà không thoát được, thì chúng ta cảm thấy khốn khổ ở bên trong (La. 7:23-24). Vì vậy, những hành vi tội lỗi cần được tha thứ và tẩy sạch, nhưng chúng ta cũng cần được giải cứu và giải phóng khỏi bản chất tội lỗi của mình (La. 6:7, 22). Ngợi khen Đức Chúa Trời, huyết của Chúa Jesus giải quyết bản án của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời và tẩy sạch lương tâm chúng ta (Mat. 26:28; Khải. 1:5; Hê. 9:14); thập tự giá của Chúa Jesus xử lý người cũ của chúng ta, giải phóng chúng ta khỏi quyền lực của tội, và ngay cả giải thoát khỏi chính tội (La. 6:6, 18). Do đó, khi La-mã 1—5:11 nói về những tội lỗi của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, thì huyết được đề cập. La-mã 5:12—8 nói về tội ở trong chúng ta, và chính phân đoạn ấy cũng đề cập đến sự kiện người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh với Đấng Christ để vô hiệu hóa thân thể của tội hầu chúng ta không còn làm nô lệ phục vụ tội nữa. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét sự kiện những tội lỗi của chúng ta cần được tha thứ và làm thế nào những tội lỗi ấy được tha thứ và tẩy sạch.

Những Tội Lỗi Cần Được Tha Thứ

Bất cứ ai đã thực sự được làm cho sống động đều sẽ có ý thức về những tội lỗi của mình. Chẳng hạn, khi người con trai hoang đàng trong Lu-ca chương 15 tỉnh ngộ, thì người con ấy cảm thấy mình đã phạm tội với Trời và cha mình. Một người thực sự được Thánh Linh soi sáng thì không thể không kết tội chính mình (Gi. 16:8). Chính lúc đó, người ấy cần sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Ngay khi nhìn thấy tội của mình, người ấy sẽ nghĩ đến bản án của mình trước mặt Đức Chúa Trời; người ấy sẽ nghĩ đến hình phạt mà tội của mình đáng phải nhận; người ấy sẽ nghĩ đến nỗi đau khổ triền miên trong hỏa ngục, và người ấy cũng hi vọng có phương cách cứu rỗi. Có lẽ khi ấy phúc âm được rao giảng cho biết thể nào Chúa Jesus đã chịu đóng đinh trên thập tự giá và đổ huyết báu của Ngài để tha thứ tội lỗi (Mat. 26:28) hầu tội lỗi của con người có thể được tẩy sạch (Khải. 1:5). Khi một người nghe phúc âm và tin, thì tội lỗi của người ấy được tha thứ (Công. 10:43; 26:18) và lương tâm của người ấy được tẩy sạch (Hê. 9:14).

Lu-ca 7:36-50 cho thấy rằng đối với “Si-môn công bình riêng” thì sự tha tội có thể không có ý nghĩa bao nhiêu, nhưng đối với một tội nhân bị những người khác nhận xét “đó là ai và là thể nào” (c. 39) thì sự tha tội rất cần thiết. Người phụ nữ tội lỗi ấy suốt đời bị giễu cợt và khinh miệt. Tình trạng ấy chỉ khiến bà tự thương hại và cảm thấy xấu hổ về chính mình. Nhưng ngày hôm ấy, có một Đấng tên là Jesus ở trước mặt bà, Đấng ấy có vẻ rất thánh khiết nhưng lại rất dễ gần gũi — thậm chí Ngài cho phép bà đứng phía sau Ngài mà khóc lóc dưới chân Ngài. Sự kiện bà khóc nói lên một vài điều: (1) nỗi đau khổ của bà vì tội lỗi, (2) câu chuyện ẩn giấu trong lòng bà, (3) sự bất lực của bà, và (4) hi vọng của bà về một Cứu Chúa! Tuy nhiên, tiếng khóc của bà đã không khiến Si-môn thông cảm, mà chỉ làm cho ông suy nghĩ nhiều (c. 39). Một người công bình riêng như Si-môn đơn giản là không thể hiểu được tại sao người ta phải khóc vì tội lỗi. Nhưng Jesus hiểu! Trước hết Ngài sửa sai Si-môn; rồi Ngài nói vì lợi ích của người phụ nữ đương khóc rằng những tội lỗi của bà đã được tha (c. 47). Sau đó, Ngài nói trực tiếp với người phụ nữ rằng: “Tội lỗi ngươi đã được tha rồi... Đức tin của ngươi đã cứu ngươi; hãy đi bình an” (cc. 48, 50). Sự tha tội ấy đối với bà là một phúc âm vĩ đại! Phúc âm ấy làm cho bà không còn than thân trách phận nữa, nhưng ngược lại đầy bình an. Vậy nên, sự tha tội trở nên một phúc âm cho nhiều tội nhân hạng nặng.

Mác 2:1-12 cho chúng ta thấy rằng đối với các nhà thông giáo công bình riêng thì sự tha tội của Đức Chúa Trời chỉ là giáo lý trống không. Đó chỉ khiến họ chỉ trích và xét đoán Con Đức Chúa Trời về thẩm quyền của Ngài đối với sự tha tội (cc. 6-7). Nhưng đối với người bị bại xuội được bốn người khiêng thì sự tha tội thực sự hữu ích. Đã bao lần tội không những dày vò tấm lòng chúng ta, mà còn hủy hoại thân thể nữa! Chúng ta nhận thấy rằng nhiều bệnh tật là do những nguyên nhân tự nhiên, sự lây bệnh hay quá nhọc mệt. Nhưng Kinh Thánh cũng cho thấy rằng một số bệnh tật là do phạm tội (Mác 2:5; Gi. 5:14). Khi bệnh tật phát sinh do phạm tội, thì người phạm tội biết, dầu [tội ấy] công khai hay ẩn giấu. Khi một người phạm tội mà hậu quả đưa đến là mắc phải một chứng bệnh bất trị nào đó, điều duy nhất người ấy có thể làm là hối hận; không còn gì để nói nữa. Chúa biết rằng với người bị bại xuội, nguyên nhân gây ra chứng bệnh của người ấy là tội lỗi. Do đó, trước hết Chúa nói với người bệnh rằng: “Con ơi, tội lỗi con đã được tha” (Mác 2:5). Sau đó, Ngài nói: “Ta bảo ngươi, hãy đứng dậy, xách đệm của ngươi mà đi về nhà ngươi” (c. 11). Tội lỗi đã được tha, và căn bệnh được chữa lành. Đó thật là một phúc âm vĩ đại! Vậy nên, sự tha tội trở nên một phúc âm vĩ đại cho nhiều người lâm bệnh vì phạm tội.

Tính Bảo Đảm Của Sự Tha Tội

Theo kinh nghiệm của những người hầu việc Chúa, một người càng nhìn thấy những tội lỗi của mình trong ánh sáng, thì người ấy càng cảm thấy buồn khổ vì những tội lỗi của mình và càng cảm nhận ân điển của sự tha tội. Đối với một số người, vì họ đã phạm quá nhiều tội lỗi nghiêm trọng, nên họ luôn luôn sợ Chúa sẽ không tha thứ mình. Một số người thường bị những tội lỗi trước kia của mình quấy nhiễu và chịu khổ sở rất nhiều nên đã bộc lộ một lương tâm yếu đuối. Mặc dầu tội lỗi của họ đã được tha thứ, nhưng mỗi khi nghĩ về tội lỗi ấy thì họ vẫn sợ hãi, e ngại những tội ấy chưa được tha thứ. Thậm chí họ có thể còn cảm thấy nếu Chúa mà tha thứ cho họ thì Ngài quá dễ dãi. Những người ở trong một tình trạng như vậy với một thái độ như vậy phải nhận thức rằng tính bảo đảm của sự tha tội có một nền tảng vững chắc. Một người như vậy phải lưu ý đến hai điểm sau đây:

1. Sự Tha Tội Đặt Nền Tảng Trên Sự Công Chính Của Đức Chúa Trời

Đức Chúa Trời của chúng ta không những là một Đức Chúa Trời thánh khiết (1 Phi. 1:16), mà còn là Đấng chuộng sự công chính và ghét sự bất pháp (Hê. 1:9). Bản chất thánh khiết của Ngài không cho phép Ngài dung túng tội, và thái độ công chính của Ngài khiến Ngài phải phán xét tội. Lời Ngài chép: “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (La. 6:23). Lời Ngài cũng chép rằng “ngoài sự đổ huyết thì không có sự tha thứ” (Hê. 9:22). Mỗi khi chúng ta phạm tội, Đức Chúa Trời phải kết tội chúng ta. Theo bản chất của Đức Chúa Trời thì Ngài thánh khiết; vì vậy, Ngài không thể dung túng tội. Theo cách Đức Chúa Trời thực hiện công việc thì Ngài công chính; cho nên, Ngài phải trừng phạt tội. Trong chính Ngài, Đức Chúa Trời cũng vinh hiển; do đó, các tội nhân không thể đến gần Ngài. Những người đến gần Ngài chắc chắn sẽ bị chết. Đức Chúa Trời đối xử với con người theo các nguyên tắc về sự thánh khiết, công chính và vinh hiển của Ngài. Vì vậy, những tội lỗi nào của chúng ta chưa trải qua sự phán xét của Đức Chúa Trời thì không được tha thứ. Ngài không đơn giản bỏ qua bản án của chúng ta. Ngài tha thứ tội lỗi của chúng ta và không còn nhớ đến chúng nữa, vì Chúa Jesus đã đổ huyết Ngài ra (Mat. 26:28; Êph. 1:7).

Ân điển không bao giờ trị vì một mình; ân điển trị vì qua sự công chính (La. 5:21). Ân điển không bao giờ đến với chúng ta cách trực tiếp, mà đến với chúng ta qua thập tự giá. Không phải Đức Chúa Trời thấy chúng ta ăn năn, hối hận và khóc lóc vì tội lỗi của mình mà Ngài thương hại và tha thứ cho chúng ta. Không, Đức Chúa Trời không bao giờ làm như vậy. Trước hết Đức Chúa Trời phán xét tội lỗi của chúng ta, rồi Ngài mới tha thứ chúng ta (Ês. 53:5, 10, 12). Người ta thường nói: “Ân điển và sự công chính không bao giờ đi chung với nhau”. Tuy nhiên, những người được ân điển dạy dỗ đều nhận thức rằng cách Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi cho con người thì hoàn hảo về cả mặt ân điển lẫn mặt công chính.

Không những đó là phương cách của Đức Chúa Trời, mà đôi khi nơi những người được Ngài cứu chuộc chúng ta cũng thấy bóng dáng sự hoàn hảo về cả mặt ân điển lẫn mặt công chính. Một nữ sinh trung học kể với tôi câu chuyện sau đây. Hiệu trưởng trường em là một người thuộc về Chúa. Ngày kia, có người làm hư vật dụng trong trường. Vị hiệu trưởng (là một phụ nữ) mở một cuộc điều tra, nhưng không ai chịu thú nhận đã làm hư vật dụng ấy. Bà cố gắng giải thích với các em học sinh rằng làm hư vật công hữu của nhà trường là không đúng, và làm hư hỏng mà không đủ can đảm thú nhận hành động của mình thì thậm chí còn tệ hơn nữa. Bà khóc khi nói những lời ấy. Sau đó, một em học sinh tiến lên thú nhận. Nhưng em học sinh ấy quá nghèo nên không thể bồi thường cho sự hư hại ấy. Sau đó, vị hiệu trưởng lấy tiền túi của mình bồi thường những thiệt hại em học sinh ấy gây nên, và cũng tha lỗi cho em. Thái độ và hành vi đầy ân điển và công chính như vậy của vị hiệu trưởng không những khiến em học sinh ấy nhận biết tội lỗi, mà còn giúp em biết về cả ân điển lẫn sự công chính. Đó chỉ là bóng dáng sự hoàn hảo về cả mặt ân điển lẫn mặt công chính được bày tỏ qua dân được cứu chuộc của Đức Chúa Trời.

Vào ngày Chúa của sự thánh khiết mang những tội lỗi của tất cả chúng ta, Ngài lớn tiếng kêu lên rằng: “Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Mat. 27:46). Sự kiện ấy thậm chí còn đau đớn hơn mão gai trên đầu Ngài và những vết thương cùng lằn roi trên thân thể Ngài. Ê-sai 53:5 chép: “Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương”. Ai nói sự tha tội là “rẻ tiền”? Những người đã được ân điển dạy dỗ đều hát với nước mắt và lòng biết ơn rằng:

Không tấm lòng nào có thể hình dung được

Tất cả chiều sâu sự đau khổ của Ngài,

Vì chúng ta Ngài đã nhận lấy Chén của sự thạnh nộ trào dâng;

Và Kìa, Ngài đã bị Đức Chúa Trời lìa bỏ

Trên cây gỗ bị rủa sả;

Chúa Jesus ơi, với lòng biết ơn,

Bây giờ chúng con tưởng nhớ Ngài.

(Thánh Ca, 213)

2. Sự Tha Tội Là Đặc Điểm Của Giao Ước Mới

Một lần nữa, chúng ta hãy xem Hê-bơ-rơ 8:12: “Bởi chưng Ta sẽ khoan thứ sự không công chính của họ, chẳng nhớ lại tội lỗi của họ nữa”. Đó là một trong những ơn phước được ban cho chúng ta trong giao ước mới. Đây chỉ về việc Đức Chúa Trời tha thứ những tội lỗi của chúng ta trong Đấng Christ. Đức Chúa Trời có thể khoan thứ sự không công chính của chúng ta vì Đấng Christ đã đổ huyết Ngài ra vì chúng ta. Không những Ngài khoan thứ sự không công chính của chúng ta, mà Ngài còn hoàn toàn không nhớ lại những tội lỗi của chúng ta nữa. Sự kiện Đức Chúa Trời không nhớ lại có nghĩa là Ngài quên đi những tội lỗi ấy. Đức Chúa Trời quên đi những tội lỗi của chúng ta không phải là Ngài quay đi hay cố ý làm ngơ trước những tội lỗi ấy, mà là [nhờ] huyết của Đấng Christ đã xóa đi bản án buộc tội chúng ta và tẩy sạch chúng ta khỏi những tội lỗi của mình (Ês. 44:22; Hê. 1:3; Khải. 1:5). Ngày nay, Đức Chúa Trời hạn chế chính Ngài trong giao ước; Ngài sẵn sàng chịu giới hạn bởi giao ước. Khi Ngài nói: “Ta sẽ khoan thứ sự bất nghĩa (hay: sự không công chính) của họ”, thì Ngài sẽ thực hiện điều đó; và khi Ngài nói: “[Ngài] chẳng nhớ lại tội lỗi của họ nữa”, Ngài sẽ không nhớ lại. Đó là giao ước mới, và là phúc âm.

Thật đáng tiếc biết bao, những gì Đức Chúa Trời nhớ thì chúng ta quên, và những gì Đức Chúa Trời không nhớ thì chúng ta cứ giữ lại trong tâm trí mình! Một số người nghĩ rằng: “Tôi đã phạm quá nhiều tội lỗi nghiêm trọng; Đức Chúa Trời có thực sự tha thứ tất cả những tội lỗi ấy không? Đức Chúa Trời có thực sự quên đi những tội lỗi ấy không?” Những người khác thì nghĩ: “Đức Chúa Trời đã xóa bỏ những tội lỗi của tôi, nhưng vết xóa thì vẫn còn. Mỗi khi nhìn đến dấu vết ấy thì Đức Chúa Trời sẽ nhớ lại tôi là một loại tội nhân như thế nào”. Những người có các ý tưởng như vậy không biết giao ước mới là gì. Vì thế, họ không biết cách vui hưởng những quyền lợi của giao ước mới.

Chúng ta không được quên rằng sự kiện Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi của chúng ta và không còn nhớ lại những tội lỗi ấy nữa chính là sự thực hiện điều khoản thứ nhất trong giao ước mới. Đức Chúa Trời đã lập một giao ước và nói: “Ta sẽ khoan thứ sự bất nghĩa (hay: sự không công chính) của họ, chẳng nhớ lại tội lỗi của họ nữa” (Hê. 8:12). Nếu Đức Chúa Trời không tha thứ những tội lỗi của chúng ta, thì chúng ta không thể nói với Ngài theo cách như sau: “Đức Chúa Trời ơi, Ngài đã lập một giao ước với chúng con. Ngài phải tha thứ những tội lỗi của chúng con. Ngài phải thực hiện theo giao ước của Ngài”. Đức Chúa Trời đã lập một giao ước, và Ngài phải hành động theo đó. Ngài không thể tùy ý tha thứ hay không chịu tha thứ, vì Ngài đã ban cho chúng ta một lời bảo đảm là giao ước.

Hê-bơ-rơ 10:1-2 cho chúng ta biết rằng “vả, luật pháp chỉ là bóng của sự tốt đẹp hầu đến, chớ không phải là hình thật của các vật, nên đều không bao giờ có thể cậy các sinh tế đồng một thứ như mỗi năm hằng dâng lên đó, mà khiến kẻ đến gần trở nên trọn vẹn được. Bằng chẳng vậy, há chẳng đã thôi dâng các sinh tế ấy rồi sao? Bởi vì kẻ phụng sự đã một lần được sạch rồi, lương tâm đâu còn cảm biết tội nữa ư?” Câu này có nghĩa là vui hưởng một lương tâm trong sạch và không còn cảm biết tội lỗi nữa không phải là điều mà những người dâng lên huyết của bò đực và chiên có thể kinh nghiệm được. Chỉ huyết của Chúa Jesus mới có thể khiến con người có được một kinh nghiệm như vậy. Khi Đức Chúa Trời nhìn thấy huyết của Chúa Jesus, Ngài tha thứ tội lỗi cho chúng ta và hoàn toàn không nhớ lại những tội lỗi ấy nữa. Đó là một đặc điểm của giao ước mới. Lời Đức Chúa Trời không thể nào sáng tỏ hơn như vậy. Nếu anh em là một người có lương tâm bất ổn, cảm thấy lương tâm vẫn cáo trách mình về những tội lỗi trước kia, thì chúng tôi khuyên anh em hát bài thánh ca sau đây cho đến khi anh em có thể nói “a-men” từ tấm lòng của mình. Khi ấy, anh em sẽ bắt đầu vui hưởng ơn phước về sự tha tội trong giao ước mới.

Tại sao tôi lại phải lo lắng, nghi ngờ và sợ hãi?

Đức Chúa Trời chưa khiến Con Ngài mang

Những tội lỗi của tôi trên cây gỗ sao?

Về món nợ mà Đấng Christ đã trả cho tôi,

Đức Chúa Trời lại đổi ý

Mà đòi nơi tôi một lần nữa sao?

Chúa đã thực hiện sự cứu chuộc trọn vẹn,

Và trả hết tất cả những nợ nần của tôi,

Để giải phóng tôi khỏi luật pháp.

Tôi không sợ cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời,

Vì tôi đã được rảy bằng huyết Ngài,

Là huyết bao phủ tôi trọn vẹn.

Vì tôi Ngài đã giành được sự tha tội,

Và cũng giành được sự tha bổng hoàn toàn,

Mọi món nợ tội đều được thanh toán;

Đức Chúa Trời không đòi hai bên phải trả,

Trước hết đòi nơi Con Ngài,

Đấng bảo lãnh thật của tôi,Và sau đó lại đòi nơi tôi.

Nên bây giờ tôi được bình an và yên nghỉ trọn vẹn,

Cứu Chúa của tôi là Đấng Christ đã thực hiện điều tốt nhất

Và đã hoàn toàn giải phóng tôi;

Bởi huyết hiệu nghiệm mọi mặt của Ngài,

Tôi không bao giờ có thể bị Đức Chúa Trời kết án,

Vì Ngài đã chết cho tôi!

    

                                                     (Thánh Ca, 1003)

Xưng Tội Và Sự Tha Thứ

Khi một tội nhân biết mình là tội nhân và tin nơi Chúa Jesus, thì những tội lỗi của người ấy được tha thứ. Đó là điều chắc chắn. Vấn đề là sau khi một người đã tin nơi Chúa và nhận được sự tha tội, người ấy có cần được tha thứ thêm nữa không? Để trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta phải xem xét ba sự kiện: (1) Sau khi được cứu, một người không nên tiếp tục sống trong tội (La. 6:1-2), và không nên lại phạm tội (Gi. 5:14; 8:11). (2) Một tín đồ vẫn có thể phạm tội (1 Gi. 1:8, 10), và một Cơ Đốc nhân rất có thể bất ngờ bị xúc phạm, bị cám dỗ và sa ngã (Ga. 6:1; 1 Cô. 10:12). Những ví dụ tiêu biểu là sự giả hình của Phi-e-rơ tại An-ti-ốt, Ba-na-ba giả vờ ở với một nhóm anh em và người anh em tại Cô-rin-tô phạm tội tà dâm (Ga. 2:11-13; 1 Cô. 5:1-2, 5, 11). Trong trường hợp người anh em phạm tội tà dâm, thì hậu quả vô cùng nghiêm trọng; một mặt thân thể của anh bị bại hoại, và mặt khác anh bị hội thánh dứt phép thông công. (3) Trong 1 Giăng 3:9, chúng ta đọc thấy: “Hễ ai sanh bởi Đức Chúa Trời thì chẳng phạm tội, vì giống của Đức Chúa Trời cứ ở trong người, và người không thể phạm tội, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời”. Câu này hàm ý thói quen và bản chất của một người được tái sinh.

Nếu được sáng tỏ về ba điểm này, chúng ta sẽ thừa nhận rằng càng tương giao với Đức Chúa Trời và càng bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa Trời, thì chúng ta càng cần được tha tội và tẩy sạch. Đức Chúa Trời là sự sáng; vì vậy, có mối tương giao với Chúa có nghĩa là ở trong sự sáng. Chúng ta thấy rõ điểm này trong 1 Giăng 1:5-7. Vậy thì làm sao chúng ta có thể có được sự tha tội? Câu trả lời ở trong 1 Giăng 1:9, câu ấy chép: “Còn nếu chúng ta xưng nhận tội mình, thì Ngài là thành tín công chính, ắt tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính”. Câu này rõ ràng cho thấy rằng nếu một tín đồ phạm tội, người ấy cần xưng nhận tội để được tha thứ. Chúng ta phải “xưng nhận tội mình”. Nếu chúng ta xưng nhận những tội lỗi của mình, thì Đức Chúa Trời là thành tín và công chính ắt tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính.

Chúng ta có thể hỏi sự thành tín của Đức Chúa Trời là gì và sự công chính của Đức Chúa Trời là gì. Sự thành tín của Đức Chúa Trời chỉ về những lời Ngài phán, trong khi sự công chính của Đức Chúa Trời chỉ về phương cách Ngài làm việc. Trong lời nói Đức Chúa Trời là thành tín, và trong hành động Đức Chúa Trời là công chính. Vì đã nói Ngài sẽ tha tội cho chúng ta, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ các tội lỗi của chúng ta. Vì đã nói Ngài sẽ làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính, nên Ngài chắc chắn sẽ làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính. Vì Ngài đã sai Con Ngài đến chết vì những tội lỗi của chúng ta, nên Ngài không thể không tẩy sạch chúng ta và tha tội cho chúng ta. Vì vậy, nếu xưng nhận những tội lỗi của mình, chúng ta phải mong đợi Ngài tha thứ và tẩy sạch chúng ta bằng cách nắm lấy giao ước Ngài đã lập với chúng ta.

Sau đây là một câu chuyện có thật. Tại thành phố kia có một chị em có lương tâm liên tục cáo trách và không để chị yên. Mỗi khi gặp nhà truyền giảng nào thì chị đều nói: “Những tội lỗi của tôi quá nghiêm trọng! Tôi không biết Đức Chúa Trời đã tha thứ cho tôi hay chưa”. Lần kia, khi chị nói như vậy, một nhà truyền giảng yêu cầu chị cùng đọc 1 Giăng 1:9 với ông. Sau đó, ông hỏi chị: “Chị đã xưng nhận những tội lỗi của mình trước mặt Đức Chúa Trời hay chưa?” Chị đáp: “Tôi đã xưng nhận, và tôi thường xuyên làm điều đó”. Ông lại hỏi: “Thế thì Lời Đức Chúa Trời nói gì?” Chị trả lời: “Lời Đức Chúa Trời nói rằng nếu chúng ta xưng nhận những tội lỗi của mình, thì Ngài là thành tín công chính, ắt tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính”. Nhà truyền giảng hỏi: “Vậy, chị nói gì?” Chị đáp: “Tôi không biết Đức Chúa Trời đã tha thứ cho tôi hay chưa”. Theo cách đó, họ đọc và nêu câu hỏi, đọc và nêu câu hỏi; rồi sau đó họ cầu nguyện. Chị lại xưng nhận những tội lỗi của mình trước mặt Đức Chúa Trời. Sau khi cầu nguyện, ông lại hỏi chị lần nữa: “Đức Chúa Trời đã tha thứ những tội lỗi của chị chưa?” Chị lại đáp: “Tôi không biết”. Khi ấy nhà truyền giảng nói với chị một cách rất nghiêm rằng: “Chị nghĩ Đức Chúa Trời là một kẻ nói dối ư?” Chị trả lời: “Làm sao tôi dám [nghĩ như vậy]?” Nhà truyền giảng nói: “Vậy nếu chúng ta xưng nhận những tội lỗi của mình, thì Đức Chúa Trời nói Ngài sẽ làm gì? Đức Chúa Trời nói rằng Ngài là thành tín và công chính ắt tha thứ những tội lỗi của chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính”. Đến đây thì chị hiểu ra vấn đề và có được sự bình an trong lương tâm của mình. Từ thời điểm đó cho tới ngày chị về với Chúa, chị luôn luôn vui mừng. Lời Chúa thực sự soi sáng và an ủi chị.

Vì vậy, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự tha tội là điều ở trong giao ước. Nếu chúng ta thừa nhận theo Lời Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho chúng ta theo giao ước của Ngài. Thưa anh chị em, chúng ta có dám cầu xin Đức Chúa Trời bằng cách nắm lấy Lời Ngài: “Đức Chúa Trời ơi, Lời Ngài nói rằng nếu chúng con thừa nhận những tội lỗi của mình, thì Ngài sẽ tha tội cho chúng con và làm cho chúng con sạch mọi sự không công chính” không? Chúng ta phải nhận thức rằng Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với chúng ta để chúng ta có thể nói với Ngài theo giao ước của Ngài. Ngài muốn chúng ta lấy đức tin mà cầu xin để Ngài thực hiện những gì ở trong giao ước. Chúng ta không chỉ cầu xin Đức Chúa Trời thương xót mình; chúng ta nhận lấy phần của mình theo giao ước. Ngợi khen Đức Chúa Trời, ngay cả sự tha tội cũng là một phần của giao ước mới.

Chắc chắn một số người nghĩ rằng nếu thực sự ghét tội thì họ sẽ dễ được tha thứ hơn. Những người khác thì cảm thấy rằng nếu liên tục buồn rầu và có một tấm lòng thống hối, thì họ sẽ dễ được tha thứ hơn. Loại cảm nghĩ ấy hoàn toàn sai trật. Lời Đức Chúa Trời không nói như vậy. Một tấm lòng thống hối và cảm giác buồn rầu là một kết quả tự nhiên, một thái độ tự nhiên, bắt nguồn từ việc được soi sáng; đó không phải là một điều kiện để chúng ta đổi lấy sự tha tội. Trong quyển Sông Phước Vô Tận (The Christian’s Secret of a Happy Life), chúng ta đọc chuyện một bé gái được hỏi: “Nếu em phạm tội, thì Chúa Jesus sẽ đối xử với em ra sao và em sẽ làm gì?” Em đáp: “Con sẽ xưng nhận những tội lỗi của mình với Chúa; Chúa Jesus sẽ làm cho con buồn rầu ít lâu, và sau đó Ngài sẽ tha thứ con”. Đừng nghĩ đó chỉ là lời nói của một đứa bé; đó cũng là câu chuyện của nhiều người lớn. Nhiều người lớn cũng có cảm nghĩ như vậy. Họ nghĩ rằng sau khi xưng nhận những tội lỗi của mình thì họ cần cảm thấy buồn rầu ít lâu; họ cần chờ đợi cho đến khi lòng mình không còn cảm thấy đau đớn — khi ấy họ sẽ nhận được bằng chứng về sự tha tội. Những người suy nghĩ như vậy đều không biết giao ước mới là gì.

Chúng ta phải nhận thức rằng sự tha tội là điều khoản ở trong giao ước mới, Đức Chúa Trời phải tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi sự không công chính vì Chúa Jesus đã đổ huyết Ngài ra. Ngay giây phút chúng ta tiếp nhận Chúa, Đức Chúa Trời tha tội chúng ta theo những gì Ngài phán trong giao ước; giây phút chúng ta thừa nhận những tội lỗi của mình cũng là chính giây phút Đức Chúa Trời tha thứ cho chúng ta theo những gì Ngài tuyên bố trong giao ước. Đức Chúa Trời bị ràng buộc bởi giao ước Ngài đã lập với chúng ta. Chúng ta chỉ cần cầu xin Đức Chúa Trời hành động theo những gì được tuyên bố trong giao ước, và Ngài bị buộc phải thực hiện điều đó.

Chúng tôi phải nhắc nhở độc giả rằng sự thừa nhận được đề cập ở đây là điều gì đó chúng ta làm sau khi nhìn thấy tội lỗi trong ánh sáng của Đức Chúa Trời. Ánh sáng của Đức Chúa Trời không dung túng tội lỗi. Khi một người thực sự nhìn thấy tội trong ánh sáng của Đức Chúa Trời, kết án tội là tội, và đến với Đức Chúa Trời xưng nhận tội lỗi của mình, Đức Chúa Trời sẽ tha thứ tội lỗi của người ấy và làm sạch sự không công chính của người ấy. Một số người trú ẩn trong sự xưng nhận tội lỗi: ngày ngày họ tiếp tục nói dối dưới huyết báu, và ngày ngày họ tiếp tục nổi giận dưới huyết báu — làm như vậy chắc chắn là sai trật. Đối với họ, xưng nhận tội lỗi là một công thức và là một phương pháp. Một mặt họ phạm tội, và mặt khác họ xưng nhận tội mình như một thủ tục. Đó không phải là xưng tội trong ánh sáng của Đức Chúa Trời. Làm như vậy chỉ là xưng tội trên môi miệng. Chúng ta đừng bao giờ làm như vậy. Điều chúng tôi nêu lên ở đây là càng tương giao với Đức Chúa Trời, càng bước đi trong ánh sáng của sự sống, thì chúng ta càng dễ nhìn thấy những tội lỗi; khi ấy chúng ta nhận thấy mình cần sự tha thứ của Đức Chúa Trời và sự tẩy sạch của huyết báu biết bao. Đó chính là sự xưng tội có giá trị. Nhờ xưng tội như vậy, chúng ta vui hưởng sự an nghỉ đến từ sự tha tội được đề cập trong giao ước mới.

Khải-thị 4:3 chép rằng quanh ngai có một cầu vồng. Cầu vồng là dấu hiệu của giao ước Đức Chúa Trời đã lập với Nô-ê. Điều đó có nghĩa là Đức Chúa Trời không bao giờ quên giao ước ấy, và cũng có nghĩa là Đức Chúa Trời phải lắng nghe lời cầu nguyện của con người nếu con người cầu nguyện theo giao ước. Hễ cầu vồng ở quanh Ngai thì Đức Chúa Trời phải lắng nghe lời cầu nguyện theo giao ước. Đức Chúa Trời đã bảo đảm với chúng ta theo cách như vậy để chúng ta có thể cầu nguyện với Ngài theo giao ước. Đó thật là một ân điển kỳ diệu!

Hôm nay, ai là người chưa giải quyết nan đề tội lỗi? Anh em có thể đem những tội lỗi của mình đến trước mặt Đức Chúa Trời, nắm lấy Lời Đức Chúa Trời và tin Ngài theo giao ước của Ngài. Khi ấy, anh em có thể an nghỉ nơi giao ước của Ngài. Lý do chúng ta mất đi quá nhiều ơn phước thuộc linh là vì chúng ta chưa nhận thức rằng Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với mình. Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với chúng ta để chúng ta có thể nói với Ngài theo giao ước ấy. Khi ấy, Ngài sẽ hành động theo giao ước.

 

 
Chúa Jesus phán cùng họ rằng: Mùa gặt thì lớn song con gặt thì ít. Vậy, hãy cầu nguyện Chúa mùa gặt sai con gặt đi vào mùa của Ngài".

Luke 10: 2