lexapro side effects sleep
  lexapro side effects anger 
click lexapro side effects shaking
is there a generic viagra
  generic viagra
       
    
        
            | 
             LỜI TỰA CHO ẤN BẢN ANH NGỮ 
             | 
        
    
 
 
    
        
            | 
             Sau khi tôi xuất bản quyển   sách này bằng tiếng Hoa, nhiều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giáo sĩ hỏi tôi bản tiếng   Anh. Tôi thấy do dự không biết có nên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đáp ứng yêu cầu của họ   không, vì cá nhân tôi muốn cho dịch 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những quyển khác trình bày chức   vụ của tôi cách tốt hơn là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyển này, là quyển dễ bị hiểu   lầm và gây ra nhiều tranh luận. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Nhưng tâm ý Chúa dường như rất   sáng tỏ, và với lòng tin chắc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy tôi đã tiến hành dịch quyển   này. Quyển sách hiện có đây đã 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được rút gọn nhiều và được sửa chữa chút ít từ bản   tiếng Hoa. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Văn thể và cách diễn đạt   trong ấn bản Anh ngữ đều không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được như ý, nhưng tôi tin rằng   về phương diện này tôi có thể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nương cậy vào lòng khoan dung của người đọc. Nếu   tất cả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những gì chúng ta muốn là lẽ   thật của Đức Chúa Trời, thì dầu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sách có khó hiểu cũng sẽ   không tạo nên ngăn trở nào đáng kể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Vì tính cách rộng lớn của chủ đề và tầm quan trọng   của các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vấn đề trong chủ đề ấy, tôi   thấy viết hoặc dịch quyển này 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không phải là dễ. Vì một vài   điểm tương đồng đã phải được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bàn đến trong những phần   khác nhau của quyển sách này, nên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cần phải đọc từ đầu đến cuối nếu chúng ta muốn có   được sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hiểu biết đầy đủ. Nếu bỏ   ngang không đọc hết quyển do gặp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khó khăn dường như không thể   khắc phục được, chúng ta sẽ có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quan điểm sai lầm; trong khi   đó, bằng cách đọc trọn quyển, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiều nan đề, nếu không phải   là tất cả, sẽ được sáng tỏ. Thông 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thường các thắc mắc dấy lên ở những điểm nào đó sẽ   được giải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đáp về sau — đôi khi là khá   lâu sau đó. Vì vậy để đối xử công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bình với quyển sách này, xin   người đọc hãy đọc trọn quyển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúng tôi không có ý định viết   quyển sách này cho mọi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người. Quyển sách này chỉ   dành cho những ai gánh vác trách 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiệm trong sự phục vụ Chúa.   Nhưng hơn thế nữa, nó được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dành cho những ai chân thành   và thực sự hết lòng với Đức  
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, cho những ai chịu   mở lòng, không khép kín tâm trí 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hay không có thành kiến. Quyển   sách này thử nghiệm không ít 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự thành thật và chân thành   của người đọc; nhưng lòng khao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khát thật và niềm ao ước được biết ý tưởng đầy trọn   của Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sẽ giúp chúng ta đọc kỹ càng   đến trang cuối cùng. Tôi nhận 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biết rất rõ quyển sách này   có nhiều khiếm khuyết (đây không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phải là làm ra vẻ nhún nhường,   nhưng là lời thú nhận thật sự); 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng dầu vậy, tôi tin rằng   Chúa đã bày tỏ một điều thật quan 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trọng cho toàn Thân Thể Đấng   Christ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Sau lần đọc thứ nhất, toàn bộ   vấn đề sẽ dần dần hình 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thành nơi người đọc và trở   nên sáng tỏ hơn qua việc từ từ suy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             gẫm. Đừng đóng sập cửa lại   và nói: “Không thể có điều đó 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được!” hay “Lý tưởng, nhưng   không thực tế!” Với tấm lòng mở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ra trong tinh thần cầu nguyện,   không bàn cãi hay tranh luận, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta hãy cho Linh của Lẽ   thật một cơ hội, và rồi điều gì đó 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của Ngài sẽ làm cho mọi phản   ứng thiên nhiên của chúng ta 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dần dần tiêu biến đi, và   chúng ta sẽ biết lẽ thật và lẽ thật sẽ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Tôi xin nhắc nhở người đọc rằng   sách này không phải để 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nghiên cứu như một giả thuyết.   Tôi có khá đông đồng công đã 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được sai phái đi và đang công tác theo chiều hướng   được bày tỏ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và có nhiều hội thánh hơn nữa   đã được thành lập và phát triển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trên nền tảng đề cập ở đây.   Cho nên các vấn đề được đưa ra 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong những trang này không   chỉ là lý thuyết hay sự dạy dỗ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             suông, mà là điều chúng tôi   đã thật sự thử nghiệm. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Một trong những lời cầu nguyện   tôi dâng lên Chúa về quyển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sách này là xin Chúa giữ nó   khỏi những người chống đối muốn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dùng nó làm cớ để công kích,   và cũng xin Chúa giữ nó khỏi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người đồng ý và muốn   dùng nó làm cẩm nang để phục 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vụ. Tôi sợ loại người thứ   hai hơn loại người thứ nhất. 
             | 
        
    
 
 
    
        
            | 
             CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU QUYỂN SÁCH   NÀY 
             | 
        
    
 
 
    
        
            | 
             Những trang sau đây là nội   dung của nhiều cuộc nói chuyện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             với các đồng công trẻ tuổi   trong những kỳ hội đồng gần đây tổ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức tại Thượng Hải và Hán   Khẩu. Khi chia sẻ những bài ấy, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi không nghĩ đến quyển   sách này, mà chỉ nghĩ đến các thính 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giả trực tiếp của mình lúc   đó, và tôi định ý dùng những bài ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để hướng dẫn các đồng công   trẻ tuổi của mình. Những sự kiện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy giải thích lý do vì sao   các bài giảng này có tính chất vô cùng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thực tế, và giải thích tại   sao tôi sử dụng văn thể đơn giản. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong hai hội đồng ấy trước   hết chúng tôi nghiên cứu sự dạy dỗ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của Lời Đức Chúa Trời về các   hội thánh và công tác của Ngài, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và thứ hai là xem lại các sứ   mạng của chúng tôi trong quá khứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dưới ánh sáng của những gì   chúng tôi đã tìm thấy. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Các anh em trẻ tuổi nhận biết   giá trị những bài nói chuyện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy và vì họ ghi chép lại,   nên các bài ấy được chia sẻ với những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người khác. Kết quả là nhiều   người yêu cầu cho in các bài ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thành sách. Vì thành phần   tham dự hội đồng chính yếu là các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đồng công trẻ tuổi của tôi,   nên tôi cảm thấy được tự do dạy dỗ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hướng dẫn họ và thảo luận   khá thoải mái về nhiều vấn đề thân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mật và có phần tế nhị. Nếu dự   định phổ biến những bài chia sẻ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy cho một cử tọa rộng rãi hơn,   hẳn tôi đã cảm thấy bắt buộc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phải bỏ đi nhiều vấn đề đã đề   cập, và rao giảng theo một chiều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hướng hoàn toàn khác. Vì vậy,   tự nhiên là tôi do dự khi người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ta đề nghị xuất bản những   bài giảng này, nhưng Chúa đã tỏ rõ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đó là ý của Ngài, nên tôi   không còn cách nào khác hơn là chấp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thuận. Tôi tự hỏi không biết   có nên giữ văn thể ban đầu của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ___________________________ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Từ ngữ “chúng tôi” được sử dụng suốt quyển sách   này như giữa vòng các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đồng công, vì từ ngữ này cũng được các sứ đồ sử dụng   trong sách Công-vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bài nói chuyện, với ít nhiều   những lời khuyên của “bậc đàn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             anh” và chiều hướng riêng tư   thân mật hay không; nhưng vì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiều bạn hữu làm chứng rằng   họ được giúp đỡ đặc biệt nhờ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những phần nói chuyện có   tính cách riêng tư hơn, nên tôi nhận 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biết quyển sách này sẽ mất   đi giá trị lớn nhất của nó nếu loại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bỏ các phần ấy đi. Vì vậy, dầu tôi cho phổ biến   các bài nói 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chuyện đã được sửa chữa phần nào, về cả nội dung   lẫn về văn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thể, chúng vẫn còn rất giống   như khi được chia sẻ lần đầu. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúng tôi tin rằng những người   đọc quyển sách này sẽ ghi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhớ rằng các bài chia sẻ ban   đầu vốn không định dành cho họ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Theo dự tính, những bài chia   sẻ này chỉ dành riêng cho những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người thân cận của tôi trong   công tác, nhưng theo yêu cầu, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng tôi chia sẻ những gì   mình khám phá được với mọi anh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             em. Quyển sách này vốn có   tính cách riêng tư nhưng lại được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đem phổ biến, ban đầu dự định   dành cho ít người bây giờ mở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rộng ra cho nhiều người; cho   nên chúng tôi tin rằng người đọc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sẽ lượng thứ cho bất cứ điều   gì dường như không thích hợp với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúng tôi muốn nêu lên ở đây   rằng vị trí của những sự dạy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dỗ trong sách này thì nằm   trong phần chủ yếu của lẽ thật thần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thượng, vì những sự dạy dỗ ấy   chỉ có giá trị thuộc linh khi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng được giữ trong mối   liên hệ với phần chủ yếu của lẽ thật 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thần thượng. Suốt mười tám   năm qua, Chúa đã dẫn dắt chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi qua những kinh nghiệm   khác nhau để chúng tôi học tập 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được một chút về nguyên tắc   cũng như sự kiện về thập tự giá 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và sự phục sinh, và học được   ít nhiều về sự sống-Đấng Christ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyền làm Chúa của Giê-su, sự   sống tập thể của Thân Thể, nền 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tảng của vương quốc Đức Chúa   Trời và mục đích đời đời của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài. Vì vậy tự nhiên những   điều đó đã và đang là gánh nặng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong chức vụ chúng tôi.   Nhưng rượu của Đức Chúa Trời phải có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bầu da để chứa. Trong khuôn   mẫu thần thượng, không có gì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dành cho con người quyết định.   Chính Đức Chúa Trời đã cung 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ứng bầu da tốt nhất cho rượu của Ngài, là chiếc   bình chứa đựng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và giữ gìn rượu không bị mất,   bị cản trở hay không còn trình 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bày sai [về chính   Ngài].  Ngài không những bày tỏ cho   chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi rượu của Ngài, mà còn bày tỏ cho chúng tôi bầu   da nữa. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Suốt những năm qua, công tác   của chúng tôi vẫn theo một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             số nguyên tắc rõ ràng; nhưng   cho đến nay chưa bao giờ chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi tìm cách định nghĩa hay   dạy dỗ các nguyên tắc đó. Dầu vậy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong quyền năng của Linh,   chúng tôi tìm cách nhấn mạnh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những lẽ thật ấy, là những lẽ   thật rất yêu dấu đối với lòng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng tôi và là những lẽ thật   mà chúng tôi tin là có liên hệ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mật thiết đến đời sống thuộc   linh của người tín đồ và mục đích 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đời đời của Đức Chúa Trời.   Nhưng thực hành các lẽ thật ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong sự phục vụ Chúa không   phải là không quan trọng. Không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có điều đó, mọi sự đều ở   trong lãnh vực lý thuyết và không thể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nào có sự tăng trưởng thuộc   linh. Cho nên nhờ ân điển của Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, chúng tôi muốn   tìm cách không những chuyển đạt 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rượu ngon của Ngài, nhưng cả bầu da mà Ngài đã   cung ứng để 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bảo vệ rượu ngon. Vì vậy các lẽ thật được nêu lên   trong quyển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sách này phải được suy xét   trong mối liên hệ với các lẽ thật 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được dạy dỗ suốt mười tám   năm chức vụ của chúng tôi, và là sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tiếp nối, chứ không phải là   sự giới thiệu, của những năm ấy. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong phạm vi những trang   sách này, tôi không thể nào 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bàn về tất cả những vấn đề   liên quan đến đề tài của sách. Một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             số vấn đề đã được bàn đến ở   những quyển khác, còn những vấn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đề khác tôi hi vọng sẽ bàn đến   sau này. Tựa sách giải thích 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bản chất của nó. Đây không phải là luận   thuyết về các phương 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             pháp truyền giáo, nhưng là   phần ôn lại công tác của chúng tôi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong quá khứ dưới ánh sáng của ý muốn Đức Chúa   Trời mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng tôi đã khám phá được trong Lời Ngài. Bởi   Linh của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài, Chúa đã dẫn dắt chúng tôi cách đầy ân điển   hơn hết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong sự phục vụ Ngài trong   quá khứ, nhưng chúng tôi muốn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được sáng tỏ về nền tảng mà   mọi công tác thần thượng cần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nương dựa trên đó. Tôi nhận   thức rằng nhu cầu chủ yếu của các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             anh em trẻ tuổi là được Linh   dẫn dắt và được nhận lãnh khải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thị từ Ngài, nhưng tôi không   thể lơ là nhu cầu của họ về một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nền tảng vững chắc phù hợp   với Kinh Thánh cho trọn cả chức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vụ của họ. Vì vậy, chúng tôi   đã thẳng thắn đàm luận với nhau 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             về những gì chúng tôi đã   làm, và phương cách chúng tôi đã 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             làm, và tìm cách so sánh   công tác và phương pháp của chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi với điều Đức Chúa Trời   đã đặt trước mặt chúng ta trong Lời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài. Chúng tôi xem xét những   lý do phù hợp với Kinh Thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho các phương tiện chúng   tôi sử dụng và sự biện minh phù hợp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             với Kinh Thánh cho cứu cánh   chúng tôi theo đuổi; và chúng tôi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ghi nhận những bài học mà   mình đã học được nhờ quan sát 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng như nhờ kinh nghiệm.   Chúng tôi không có ý phê phán 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công lao của người khác, thậm   chí không hề gợi ý với họ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công tác của Đức Chúa Trời cần   phải được tiến hành theo cách 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nào; chúng tôi chỉ tìm cách   học hỏi từ Lời Đức Chúa Trời, từ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kinh nghiệm và từ sự quan   sát cách tiến hành công tác trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những ngày tới, để chúng tôi   có thể là những người làm công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “được Đức Chúa Trời chấp thuận”. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Quyển sách này được viết   theo quan điểm của một đầy tớ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhìn từ công tác hướng về   các hội thánh. Sách này không bàn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đến chức vụ cụ thể mà chúng   tôi tin rằng Chúa đã kêu gọi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng tôi, nhưng chỉ bàn đến   những nguyên tắc chung của công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tác; sách này cũng không bàn   đến “hội thánh, là Thân Thể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài”, nhưng bàn đến các hội   thánh địa phương và mối liên hệ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của các hội thánh với công   tác. Sách này không bàn đến các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nguyên tắc của công tác, hay   nếp sống của các hội thánh, mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ ôn lại các sứ mạng của   chúng tôi, như tựa đề sách nêu lên. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Các lẽ thật được nêu lên   trong sách này đã dần dần được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             học tập và thực hành suốt những   năm qua. Có nhiều điều được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều chỉnh khi chúng tôi nhận   được ánh sáng lớn hơn, và nếu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng tôi tiếp tục khiêm nhường   và Đức Chúa Trời vẫn bày tỏ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự thương xót cho chúng tôi,   chúng tôi tin rằng sẽ còn những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều chỉnh thêm nữa trong   tương lai. Trong ân điển của Ngài, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa đã ban cho chúng tôi   nhiều đồng công, tất cả những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người ấy đã được sai phái ra   đi trên nền tảng đã được đề cập 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong sách này, và qua công   lao của họ nhiều hội thánh đã được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thành lập ở những miền khác nhau tại Trung Quốc.   Dầu tình 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trạng những hội thánh này rất   khác nhau, và các tín đồ liên hệ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đến các hội thánh ấy cũng rất   khác nhau — về bối cảnh, học 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vấn, địa vị xã hội và kinh   nghiệm thuộc linh — nhưng chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi đã khám phá ra rằng dưới quyền làm Chúa tuyệt   đối của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Giê-su, nếu chúng ta đến xem   kiểu mẫu thiên thượng về sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hình thành và quản trị hội   thánh, thì những phương pháp của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Kinh Thánh vừa có thể áp dụng được trong thực tế,   vừa rất kết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Dầu sách này dường như bàn đến phương diện kỹ thuật   của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đạo Đấng Christ, điều cần nhấn   mạnh ở đây là chúng tôi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không chỉ nhắm đến sự đúng đắn   về mặt kỹ thuật. Điều chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi theo đuổi là thực tại   thuộc linh. Nhưng tính cách thuộc linh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không phải là vấn đề lý thuyết,   mà luôn luôn dẫn đến sự thực 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hành; sách này bàn đến tình   trạng thuộc linh trong công tác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đối với tôi, thật là mệt mỏi   nếu không nói là kinh khủng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khi phải nói chuyện với những   người chỉ nhắm đến sự đúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đắn hoàn hảo bề ngoài, trong   khi không mấy quan tâm đến 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều gì sống động và thuộc   linh. Vì vậy, các phương pháp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             truyền giáo không thu hút   tôi chút nào. Thật ra, tôi cảm thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đau buồn sâu xa khi gặp những   con cái của Đức Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không biết gì về tình trạng   đáng ghét của một đời sống trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             năng lực thiên nhiên của con   người và chỉ biết rất ít về kinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nghiệm trọng yếu thuộc quyền   làm đầu của Giê-su Christ, thế 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mà lại cẩn thận từng li từng   tí để đạt đến chỗ hoàn toàn chính 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             xác về phương pháp trong sự   phục vụ Đức Chúa Trời. Nhiều lần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người ta nói với chúng tôi:   “Chúng tôi đồng ý với các anh về 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mọi sự”. Nhưng thật ra không   phải như vậy! Trên thực tế 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta không đồng ý với   nhau chút nào! Chúng tôi hi vọng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyển sách này sẽ không rơi   vào tay những người muốn cải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thiện công tác của họ bằng   cách cải tiến phương pháp mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không điều chỉnh mối quan hệ   của họ với Chúa; nhưng chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tôi thật hi vọng quyển sách   này có một thông điệp cho những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người khiêm nhường muốn học   tập sống trong quyền năng của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Linh và không tin cậy xác thịt   chút nào. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Có bầu da mà không có rượu là chết, nhưng có rượu   mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không có bầu da thì cũng mất   mát. Chúng ta phải có bầu da 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sau khi có rượu. Phao-lô viết thư   Ê-phê-sô, nhưng ông cũng viết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thư Cô-rin-tô; và thư   Cô-rin-tô trình bày cho chúng ta các lẽ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật của thư Ê-phê-sô trong   biểu hiện thực tế. Phải, người viết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thư Ê-phê-sô cũng là người   viết thư Cô-rin-tô! Thế thì tại sao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các con cái của Đức Chúa Trời   chưa bao giờ tranh luận gay gắt 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             về các lẽ thật của thư   Ê-phê-sô, nhưng lại luôn luôn tranh cãi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             về các lẽ thật của thư Cô-rin-tô? Vì lãnh vực của   thư Ê-phê-sô 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là cõi thiên thượng và những   lẽ thật ấy thuần thuộc linh, cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nên nếu có sự bất đồng ý kiến   nào về những lẽ thật ấy thì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không ai cảm nhận rõ; nhưng   những sự dạy dỗ của thư 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cô-rin-tô thì thực tế và bàn   đến lãnh vực thuộc đất, cho nên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nếu có ý kiến khác biệt một   chút thì người ta phản ứng ngay 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lập tức. Phải, thư Cô-rin-tô   rất thực tế! Và thư này thử nghiệm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự vâng phục của chúng ta   nhiều hơn thư Ê-phê-sô! 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Những người ít biết về sự sống   và thực tại có hiểm họa chỉ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhấn mạnh đến sự đúng đắn bề   ngoài; nhưng những người kể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự sống và thực tại là tối   quan trọng lại bị cám dỗ ném bỏ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khuôn mẫu thần thượng của   nhiều điều, nghĩ rằng khuôn mẫu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy là luật pháp và kỹ thuật. Họ cảm thấy họ có điều   quan 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trọng hơn và do đó không cần   đến điều thấp kém hơn. Hậu quả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là càng thuộc linh, người ta   càng cảm thấy mình được tự do hơn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để làm những gì mình nghĩ là   thích hợp. Người ấy nghĩ rằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mình có quyền định đoạt những   sự việc bề ngoài, và cho rằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bỏ qua những mạng lệnh của Đức Chúa Trời về những   sự việc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bề ngoài là dấu chỉ mình đã   được được giải cứu khỏi luật pháp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và đang bước đi trong sự tự   do của Linh. Nhưng Đức Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không những bày tỏ các lẽ thật   về sự sống bề trong của chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ta; Ngài cũng bày tỏ lẽ thật   liên quan đến biểu hiện bề ngoài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của sự sống ấy. Đức Chúa Trời đánh giá cao thực tại   bề trong, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng Ngài không bỏ qua biểu   hiện bề ngoài của thực tại ấy. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta Ê-phê-sô, Rô-ma   và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cô-lô-se, nhưng Ngài cũng   ban cho chúng ta Công-vụ, các Thư 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tín gửi cho Ti-mô-thê, và   các Thư tín gửi cho người Cô-rin-tô. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Có lẽ chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời dùng   Rô-ma, Ê-phê-sô 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và Cô-lô-se dạy dỗ chúng ta   về sự sống của mình trong Đấng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Christ là đủ rồi, nhưng Ngài   cho rằng Ngài dùng Công-vụ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cô-rin-tô và Ti-mô-thê dạy dỗ   chúng ta cách thi hành công tác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và cách tổ chức Hội Thánh là   cần thiết. Đức Chúa Trời không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chừa điều gì cho sự tưởng tượng   hay ý muốn của con người. Con 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người sợ dùng những đầy tớ   không biết suy nghĩ, nhưng Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời không muốn dùng những   đầy tớ suy nghĩ quá nhiều; 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tất cả những gì Ngài đòi hỏi   con người là vâng phục cách đơn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sơ. “Ai đã làm mưu sĩ cho   Ngài ư?” Phao-lô đã hỏi như vậy (Rô 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             11:34). Con người rất muốn   giữ chức vụ ấy, nhưng Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời không cần cố vấn. Vị   trí của chúng ta không phải là đề 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nghị công tác thần thượng   nên được thực hiện như thế nào, mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là trong mọi sự chúng ta phải   hỏi: “Ý muốn của Chúa là gì?” 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Người Pha-ri-si rửa sạch   ngoài mâm, nhưng trong mâm thì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đầy dẫy sự ô uế. Chúa chúng   ta quở trách họ vì quá coi trọng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những điều bề ngoài và bỏ   qua những điều bên trong; từ lời quở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trách của Chúa, nhiều con   cái Chúa kết luận rằng mọi sự đều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tốt đẹp miễn là chúng ta chú   trọng đến phương diện bề trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của lẽ thật thuộc linh.   Nhưng Đức Chúa Trời đòi hỏi sự tinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sạch cả trong lẫn ngoài. Có   bề ngoài mà không có bề trong là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chết thuộc linh, nhưng có bề   trong mà không có bề ngoài thì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ là sự sống thuộc linh   hóa. Và thuộc linh hóa không phải là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thuộc linh. Chúa chúng ta   phán: “Những điều này các ngươi cần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phải làm, mà những điều kia   cũng không nên bỏ sót” (Math. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             23:23). Dầu một mạng lệnh   thiên thượng có vẻ kém quan trọng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đến đâu chăng nữa, mạng lệnh   ấy vẫn nói lên ý muốn của Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời; vì vậy, chúng ta   đừng bao giờ xem thường. Chúng ta 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không thể bỏ qua mạng lệnh   nhỏ nhất của Ngài mà không bị 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trừng phạt. Những điều Ngài   đòi hỏi có thể có tầm quan trọng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác nhau, nhưng mọi sự thuộc   về Đức Chúa Trời đều có mục 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đích đời đời và giá trị đời   đời. Dĩ nhiên, sự giữ hình thức bề 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngoài của sự phục vụ không   có giá trị thuộc linh nào. Mọi lẽ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật thuộc linh, dầu liên   quan đến sự sống bề trong hay bề 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngoài, đều rất có thể bị luật   pháp hóa. Mọi sự thuộc về Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời — dầu là bề trong hay bề ngoài — nếu ở   trong Linh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đều là sự sống, nếu ở trong   văn tự đều là sự chết. Cho nên vấn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đề không phải điều đó thuộc   bề trong hay bề ngoài, nhưng điều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đó ở trong Linh hay trong   văn tự. “Văn tự làm cho chết, còn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thần linh (RcV: Linh) làm cho sống” (2 Côr. 3:6). 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Mong ước của chúng tôi là chấp nhận và công bố   toàn bộ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Lời Đức Chúa Trời. Chúng tôi   khao khát có thể cùng nói với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Phao-lô: “Vì tôi không tránh   trút mà rao giảng cho anh em cả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ định của Đức Chúa Trời”   (Công 20:27). Chúng ta tìm cách 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đi theo sự dẫn dắt của Linh Đức Chúa Trời, nhưng   đồng thời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng chú tâm đến đến những gương mẫu được bày tỏ   cho chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ta trong Lời Ngài. Sự dẫn dắt của Linh rất quí   báu, nhưng nếu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không có gương mẫu nào trong   Lời, chúng ta dễ thay thế sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dẫn dắt của Linh bằng các tư tưởng sai lầm và cảm   xúc vô căn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cứ của mình, trôi dạt vào lỗi   lầm mà không biết. Nếu một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người không được chuẩn bị để vâng phục ý muốn của   Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời trong mỗi một lời chỉ dẫn,   thì rất dễ làm những điều trái 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngược với Lời Ngài mà vẫn tưởng   mình đang được Linh Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dẫn dắt. Chúng tôi nhấn mạnh   tính cách thiết yếu của việc vừa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đi theo sự dẫn dắt của Linh   vừa đi theo những gương mẫu trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Lời, vì bằng cách so sánh đường   lối của mình với Lời thành 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             văn chúng ta có thể khám phá   ra nguồn dẫn dắt mình. Sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hướng dẫn của Linh sẽ luôn   luôn hòa hợp với Kinh Thánh. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cách Đức Chúa Trời dẫn dắt con người trong sách   Công-vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không thể khác với cách Ngài   dẫn dắt con người ngày nay. Về 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bề ngoài sự dẫn dắt có thể   khác, nhưng theo nguyên tắc thì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             luôn luôn giống nhau; vì ý   muốn của Đức Chúa Trời là đời đời, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vì vậy ý muốn ấy không thay đổi. Đức Chúa Trời là   Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời đời đời; Ngài không   quan tâm đến thời gian, và ý muốn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cùng đường lối của Ngài đều   mang dấu ấn đời đời. Do đó, Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời không bao giờ có   thể hành động lúc như vầy lúc thế 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác. Hoàn cảnh có thể khác   nhau và các trường hợp có thể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác nhau, nhưng trên nguyên   tắc thì ý muốn và đường lối của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời ngày nay cũng như vào thời của sách   Công-vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời phán với người Y-sơ-ra-ên: “Ấy vì   lòng cứng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cỏi của các ngươi nên Môi-se cho phép các ngươi để   vợ” (Math. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             19:8), nhưng Chúa Giê-su   nói: “Những kẻ mà Đức Chúa Trời đã 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phối hiệp, người ta chớ chia   rẽ” (Math. 19:6). Ở đây có sự khác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biệt không? Không! “Ấy vì   lòng cứng cỏi của các ngươi nên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Môi-se cho phép các ngươi để   vợ, nhưng từ ban đầu không có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             như vậy đâu” (Math. 19:8). Không phải ban đầu được   phép rồi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             về sau bị cấm, và về sau nữa lại được phép, dường   như Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời thay đổi. Không,   Chúa nói: “Từ ban đầu không có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             như vậy đâu” bày tỏ rằng ý   muốn của Đức Chúa Trời không bao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giờ thay đổi. Từ ban đầu cho đến ngày nay vẫn y   nguyên. Đây 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là nguyên tắc quan trọng nhất.   Nếu muốn biết tâm trí của Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, chúng ta phải   nhìn vào các mạng lệnh của Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong Sáng-thế Ký và đừng   nhìn vào những gì Ngài cho phép 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             về sau, vì mỗi một điều cho   phép về sau có lời giải thích này: 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “vì lòng cứng cỏi của các   ngươi”. Chúng ta muốn khám phá ý 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             muốn trực tiếp của Đức Chúa   Trời, không phải ý muốn cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phép của Ngài. Chúng ta muốn thấy mục đích của Đức   Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời từ ban đầu. Chúng ta muốn thấy sự việc như   thế nào khi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bắt nguồn trong sự thuần khiết   trọn vẹn từ tâm trí của Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, chứ không phải sự   việc đã trở nên thế nào do sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Nếu muốn hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời về Hội   Thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài, chúng ta không được   nhìn xem cách Ngài dẫn dắt dân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài năm ngoái, hay cách đây   mười năm, hay cách đây một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trăm năm, nhưng chúng ta phải   trở lại từ đầu, trở về với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “Sáng-thế Ký” của Hội Thánh,   để xem khi ấy Ngài nói và làm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những gì. Tại đó chúng ta sẽ   thấy biểu hiện cao nhất của ý 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             muốn Ngài. Công-vụ là “Sáng-thế Ký” của lịch sử Hội   Thánh, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và Hội Thánh vào thời   Phao-lô là “Sáng-thế Ký” về công tác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của Linh. Tình trạng trong Hội   Thánh ngày nay rất khác với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tình trạng thời ấy, nhưng   tình trạng ngày nay không thể là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khuôn mẫu của chúng ta,   không thể là sự dẫn dắt có thẩm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyền cho chúng ta. Chúng ta   phải trở lại thuở ban đầu. Chỉ có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều gì Đức Chúa Trời đưa ra   làm khuôn mẫu cho chúng ta từ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đầu mới là ý muốn đời đời của Đức Chúa Trời. Đó   là tiêu chuẩn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thần thượng và khuôn mẫu của   chúng ta mãi mãi. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Có lẽ cần phải giải thích   đôi lời về những khuôn mẫu Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời đã ban cho chúng ta trong Lời Ngài. Đạo   Đấng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Christ không những được xây   dựng trên các lời giáo huấn, mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng trên những khuôn mẫu nữa.   Đức Chúa Trời đã bày tỏ ý 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             muốn Ngài, không những bằng cách   ban những huấn lệnh mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng bằng cách cho những sự   việc được thực hiện trong Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh Ngài, để trong các thời   đại về sau, những người khác có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thể chỉ nhìn vào khuôn mẫu   mà biết ý muốn Ngài. Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời không chỉ hướng dẫn dân Ngài bằng những   nguyên tắc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trừu tượng và những luật lệ   khách quan, mà còn bởi những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             gương mẫu cụ thể và kinh   nghiệm chủ quan. Đức Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật có dùng những lời giáo   huấn để dạy dỗ dân Ngài, nhưng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một trong những phương pháp   dạy dỗ chính yếu là qua lịch sử. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời bày tỏ cho chúng ta những người   khác đã biết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và thực hiện ý muốn Ngài như   thế nào, để rồi bằng cách nhìn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vào đời sống họ, chúng ta   không những biết ý muốn của Ngài, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mà còn thấy cách thực hiện ý   muốn ấy nữa. Ngài hành động 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong đời sống họ, sản sinh   ra trong họ những gì chính Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mong muốn, và Ngài khuyên   chúng ta nhìn vào họ, để có thể 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biết những gì Ngài theo đuổi. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Như vậy, chúng ta có được   nói rằng vì Đức Chúa Trời không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             truyền lệnh phải làm một điều   gì đó nên chúng ta không cần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             làm? Nếu chúng ta đã thấy cách Ngài đối xử với   loài người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong quá khứ, nếu chúng ta đã thấy cách Ngài dẫn   dắt dân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài và xây dựng Hội Thánh   Ngài, chúng ta vẫn có thể viện cớ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rằng mình không biết ý muốn   của Ngài sao? Một đứa trẻ có cần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phải được chỉ bảo cách rõ ràng tường tận phải làm   mọi chuyện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             như thế nào không? Có cần phải   cho nó biết từng điều một cái 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nào được phép làm và cái nào   không được phép làm không? 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Không phải là có nhiều điều   “đứa trẻ” có thể học tập chỉ bằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách quan sát cha mẹ hay anh   chị mình sao? Chúng ta học nơi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những gì mình thấy nhanh   chóng và dễ dàng hơn những gì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mình nghe, và ấn tượng do những   gì chúng ta thấy cũng sâu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đậm hơn. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời ban cho   chúng ta 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rất nhiều sự kiện lịch sử   trong Cựu Ước và sách Công-vụ các Sứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đồ trong Tân Ước. Ngài biết   chúng ta học qua gương mẫu dễ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dàng hơn là học qua lời giáo   huấn. Các gương mẫu có giá trị 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lớn hơn những lời giáo huấn,   vì lời giáo huấn thì trừu tượng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong khi gương mẫu là lời   giáo huấn được thực hiện. Bằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách nhìn vào gương mẫu,   không những chúng ta biết lời giáo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             huấn của Đức Chúa Trời là   gì, mà chúng ta còn có sự trình bày 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cụ thể về việc thi hành lời   giáo huấn. Nếu cố gắng loại bỏ các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             gương mẫu khỏi Đạo Đấng Christ và chỉ để lại các   lời giáo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             huấn, thì chúng ta không còn   lại bao nhiêu. Các lời giáo huấn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có chỗ của chúng, nhưng   gương mẫu cũng có một vị trí không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kém quan trọng, tuy nhiên rõ   ràng là nếu không có sự sống 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tương hợp ở bên trong thì phỏng   theo khuôn mẫu thần thượng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách bề ngoài chỉ là hình thức   mà thôi. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Để kết luận, tôi xin nhấn mạnh   rằng đây không phải là một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyển sách về các phương   pháp truyền giáo. Chúng ta không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nên khinh thường phương   pháp, nhưng trong sự phục vụ Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, điều quan trọng   nhất là con người chứ không phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phương pháp của con người. Nếu một người không   đúng đắn, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thì các phương pháp đúng đắn không ích lợi gì cho   người ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hay cho công tác của người ấy.   Phương pháp xác thịt thích hợp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             với người xác thịt, và   phương pháp thuộc linh thích hợp với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người thuộc linh. Người xác   thịt mà dùng phương pháp thuộc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             linh thì chỉ dẫn đến tình trạng   rối loạn và thất bại. Quyển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sách này dành cho những ai   đã học biết ít nhiều về thập tự giá, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biết sự bại hoại của bản chất   con người, và tìm cách bước đi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             theo Linh, không theo xác thịt.   Mục tiêu của quyển sách này là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giúp những người thừa nhận quyền làm Chúa của Đấng   Christ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong mọi sự, và tìm cách phục   vụ Ngài theo cách Ngài chỉ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             định, chứ không theo cách họ   chọn lựa. Nói cách khác, quyển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sách này được viết cho những   người đã tiếp nhận những lẽ thật 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong Ê-phê-sô, để họ có thể   biết cách bày tỏ sự phục vụ của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mình theo Cô-rin-tô. Mong rằng   không một người đọc nào dùng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyển sách này làm cơ sở để   điều chỉnh công tác cách bề ngoài, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mà không để thập tự giá triệt   để xử lý sự sống thiên nhiên của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong công tác của Đức Chúa Trời, mọi sự tùy thuộc   vào loại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công tác viên được sai đi và   loại người hoán cải được sinh ra. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Về phần người hoán cải, điều   thiết yếu là phải có sự tân sinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật sự của Thánh Linh và mối   liên hệ sống động với Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời. Về phần công tác viên,   ngoài sự thánh khiết cá nhân và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự ban cho ân tứ để phục vụ,   điều thiết yếu là người ấy có sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hiểu biết trong kinh nghiệm về ý nghĩa sự phó   thác cho Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời và đức tin nơi sự quan phòng tể trị của   Ngài. Nếu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không, dầu phương pháp được   áp dụng có phù hợp với Kinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh đến đâu chăng nữa, kết   quả vẫn là trống rỗng và thất 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Tôi xin phó thác quyển sách   này cho Chúa và dân Ngài, với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lời cầu nguyện là xin Ngài   dùng nó cho vinh quang Ngài theo ý 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời   công tác. Chúa chúng ta 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phán: “Cha Ta vẫn làm việc   cho đến bây giờ”. Ngài có một mục 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đích cụ thể, và toàn bộ công   tác của Ngài đều nhắm vào việc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hoàn thành mục đích ấy. Ngài   là Đức Chúa Trời “làm mọi sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             theo quyết nghị của ý chỉ   Ngài”. Nhưng Đức Chúa Trời không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trực tiếp làm mọi sự. Ngài   hành động qua các đầy tớ Ngài. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Giữa vòng các đầy tớ của Đức   Chúa Trời các sứ đồ là những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người quan trọng nhất. Chúng   ta hãy nghiên cứu kỹ Lời Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời để xem Lời dạy gì   về các sứ đồ. 
             | 
        
    
 
 
    
        
            | 
             Khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời sai Con   Ngài đến 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thế gian để thực hiện công   tác của Ngài. Ngài được biết đến là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đấng Christ của Đức Chúa Trời, tức là “Đấng được   xức dầu”. Từ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngữ “Con” liên hệ đến Thân Vị   của Ngài; danh hiệu “Christ” 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             liên hệ đến chức vụ của   Ngài. Ngài là Con Đức Chúa Trời, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng Ngài được sai đến để   làm Đấng Christ của Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời. “Christ” là tên của   Con Đức Chúa Trời trong chức vụ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa chúng ta không tự ý đến   trên đất hay lên thập tự giá; 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài không tự chỉ định, mà   được sai đi. Trong suốt Phúc-âm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Giăng, chúng ta thường thấy   Ngài nói về Đức Chúa Trời là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “Đấng đã sai Ta”, chứ không   là “Đức Chúa Trời” hay “Cha”. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài nhận lấy vị trí của người   được sai đi. Nếu Con Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời còn như vậy, thì các đầy tớ của Ngài lại   càng nên áp dụng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thái độ ấy cho mình là dường   nào! Nếu thậm chí Con còn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không thể khởi xướng trong   công tác của Đức Chúa Trời, lẽ nào 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta có thể khởi xướng?   Nguyên tắc đầu tiên cần lưu ý 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong công tác của Đức Chúa Trời là tất cả các   công tác viên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của Ngài đều là những người   được sai đi. Nếu không có sự ủy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiệm thần thượng thì không   thể có công tác thần thượng. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Kinh Thánh đặc biệt gọi người được sai đi là sứ đồ.   Ý nghĩa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của từ ngữ Hi-lạp này là   “người được sai đi”. Chính Chúa là vị 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Sứ đồ đầu tiên vì Ngài là người đầu tiên được Đức   Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sai phái cách đặc biệt; vì vậy,   Lời Kinh Thánh nói Ngài là “Sứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đồ (BNC: Sứ giả)” (Hê 3:1). 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Đang khi Chúa thi hành chức   vụ sứ đồ của Ngài trên đất, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài luôn luôn nhận thức rằng   sự sống của Ngài trong xác thịt 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có giới hạn. Vì vậy, thậm   chí đang khi theo đuổi công tác mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cha ủy nhiệm, Ngài chuẩn bị   một nhóm người để tiếp tục công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tác sau khi Ngài ra đi. Những   người này cũng là các sứ đồ được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ định. Họ không phải là   những người tình nguyện; họ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người được sai đi.   Chúng ta không thể nhấn mạnh đủ sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kiện là mọi công tác thần   thượng đều do ủy nhiệm chứ không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa chúng ta lựa chọn các sứ   đồ này từ những ai? Họ được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lựa chọn từ trong các môn đồ   Ngài. Tất cả những người được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa sai đi vốn là các môn đồ.   Không phải môn đồ nào cũng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhất thiết phải là sứ đồ,   nhưng tất cả các sứ đồ nhất thiết phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là môn đồ; không phải tất cả   môn đồ đều được lựa chọn cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công tác, nhưng những ai được   lựa chọn luôn luôn được lựa chọn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             từ trong số các môn đồ của   Chúa. Như vậy một sứ đồ phải có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hai sự kêu gọi; trước hết   người ấy phải được gọi làm môn đồ, và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thứ hai người ấy phải được gọi làm sứ đồ. Trước hết   người ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được kêu gọi từ giữa những   con cái của thế gian để làm người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             theo Chúa. Thứ hai người ấy   được kêu gọi từ giữa những người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             theo Chúa để làm người được Ngài sai đi. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Các sứ đồ được Chúa lựa chọn   trong khi Ngài thi hành chức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vụ trên đất chiếm một vị trí   đặc biệt trong Kinh Thánh, và họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng chiếm một vị trí đặc biệt   trong mục đích của Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời, vì họ ở với Con Đức   Chúa Trời trong khi Ngài sống trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             xác thịt. Họ không chỉ là những   sứ đồ được kêu gọi mà còn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được gọi là “mười hai sứ đồ.”   Họ chiếm một vị trí đặc biệt trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Lời Đức Chúa Trời, và họ chiếm một vị trí đặc biệt   trong kế 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hoạch của Đức Chúa Trời. Chúa chúng ta bảo   Phi-e-rơ rằng một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngày kia họ sẽ “ngồi trên   ngôi mà xét đoán mười hai chi phái 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Y-sơ-ra-ên” (Lu 22:30). Đấng   là Sứ đồ có ngai của Ngài, và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai sứ đồ cũng sẽ có   ngai của họ nữa. Đó là đặc quyền 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không được ban cho các sứ đồ khác. Khi Giu-đa mất   chức vụ và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời dẫn dắt mười một   người còn lại chọn một người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để bù cho đủ số; chúng ta đọc   thấy họ bắt thăm và thăm trúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhằm Ma-thia, “người bèn được   liệt vào mười một sứ đồ” (Công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             1:26). Trong chương tiếp   theo chúng ta thấy Thánh Linh cảm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thúc người viết sách Công-vụ   ghi rằng: “Bấy giờ Phi-e-rơ cùng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười một sứ đồ đứng dậy” (Công 2:14), cho thấy   Thánh Linh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thừa nhận Ma-thia là một   trong mười hai sứ đồ. Ở đây chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ta thấy con số của các sứ đồ   cố định; Đức Chúa Trời không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             muốn nhiều hơn mười hai người,   Ngài cũng không muốn ít hơn. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong sách Khải-thị chúng ta   thấy sau cùng, một lần nữa, họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giữ một địa vị đặc biệt —   “Tường thành có mười hai nền, trên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đề mười hai danh của mười hai   sứ đồ của Chiên Con” (Khải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             21:14). Thậm chí trong trời   mới và đất mới, mười hai sứ đồ sẽ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được hưởng địa vị đặc biệt mà các công tác viên   khác của Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời không được hưởng. 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             CÁC SỨ ĐỒ VÀO THỜI KINH THÁNH 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Chúa với tư cách là một sứ đồ   thì độc nhất vô nhị, và mười 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hai sứ đồ cũng độc nhất vô   nhị; nhưng Đấng là Sứ đồ cũng như 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai sứ đồ không thể ở   trên đất mãi mãi. Khi Chúa ra đi, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài để lại mười hai người để tiếp tục công tác của   Ngài. Nay 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai sứ đồ đã ra đi, vậy   còn lại ai để tiếp tục thực hiện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa đã ra đi, nhưng Linh đã   đến. Thánh Linh phải đến để 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chịu mọi trách nhiệm về công   tác của Đức Chúa Trời trên đất. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Con làm việc cho Cha; Linh   làm việc cho Con. Con đến để hoàn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thành ý muốn của Cha; Linh đến   để hoàn thành ý muốn của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Con. Con đến để tôn vinh   Cha; Linh đến để tôn vinh Con. Cha 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ định Đấng Christ làm Sứ   đồ; Con cũng chỉ định mười hai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người làm các sứ đồ trong khi ở trên đất. Bây giờ   Con đã trở về 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             với Cha, và Linh ở trên đất   chỉ định con người làm sứ đồ. Các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ được Thánh Linh chỉ định   không thể xếp vào hàng những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người mà Con đã chỉ định;   tuy nhiên, họ cũng là các sứ đồ. Các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ mà chúng ta đọc thấy   trong Ê-phê-sô chương 4 rõ ràng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không phải là mười hai người   ban đầu, vì những người kia được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ định khi Chúa còn ở trên   đất, trong khi những người này 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được chỉ định vào chức vụ sứ   đồ sau khi Chúa thăng thiên — họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là những ân tứ Chúa Giê-su   ban cho Hội Thánh sau khi Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vinh hóa. Mười hai sứ đồ khi   ấy là những người đích thân theo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Giê-su, nhưng các sứ đồ   bây giờ là những người cung ứng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để xây dựng Thân Thể Đấng Christ. Chúng ta phải   phân biệt 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rõ ràng giữa các sứ đồ là chứng   nhân về sự phục sinh của Đấng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Christ (Công 1:22, 26) và các sứ đồ là những người   cung ứng để 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             xây dựng Thân Thể Đấng Christ, vì Thân Thể Đấng   Christ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hiện hữu sau thập tự giá. Chắc   chắn về sau mười hai người ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng nhận được sự ủy nhiệm của   Ê-phê-sô, nhưng thuộc nhóm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai người, họ rất khác biệt với các sứ đồ được   đề cập 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong thư Ê-phê-sô. Hiển   nhiên khi ấy Đức Chúa Trời có những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ khác ngoài mười   hai sứ đồ ban đầu. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngay sau khi Linh đổ ra,   chúng ta thấy mười hai sứ đồ thực 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hiện công tác. Cho đến   Công-vụ chương 12 chúng ta thấy họ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những công tác viên chính yếu;   nhưng với chương mười ba mở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ra chúng ta thấy Thánh Linh bắt đầu bày tỏ chính   Ngài là Đại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Diện của Đấng Christ và là   Chúa của Hội Thánh. Trong chương 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy chúng ta thấy ở An-ti-ốt,   khi một số tiên tri và giáo sư đang 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phụng sự Chúa và kiêng ăn,   thì Thánh Linh phán: “Hãy biệt 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho Ta để làm công việc   Ta đã gọi họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             làm” (Công 13:2). Bấy giờ là   thời điểm Linh bắt đầu sai phái 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             con người. Vào thời điểm ấy   Thánh Linh đã ủy nhiệm hai công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Sau khi hai người này được   Linh sai đi, họ được ban cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             danh hiệu gì? Khi Ba-na-ba và Phao-lô đang công   tác tại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Y-cô-ni: “Dân chúng trong   thành chia rẽ, kẻ thì theo người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Do-thái, người thì theo hai   sứ đồ” (Công 14:4). Hai người được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sai đi trong chương trước được   nhắc đến trong chương này như 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những sứ đồ, và trong cùng một   chương (c. 14), danh hiệu “hai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ” được dùng thay thế   cho “Ba-na-ba và Phao-lô”, chứng tỏ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rõ ràng hai người được Thánh   Linh sai đi cũng là các sứ đồ. Họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không ở trong nhóm mười hai   người; nhưng họ cũng là các sứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Như vậy ai là sứ đồ? Sứ đồ là công tác viên của Đức   Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời, được Thánh Linh sai đi   để làm công tác Ngài kêu gọi họ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trách nhiệm công tác ở trong   tay họ. Nói chung, tất cả tín đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đều chịu trách nhiệm về công   tác của Đức Chúa Trời, nhưng các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ là nhóm người đặc biệt   được biệt riêng cho công tác. Theo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một ý nghĩa cụ thể, trách   nhiệm công tác đặt trên họ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Bây giờ chúng ta đã thấy sự dạy dỗ của Kinh Thánh   khi bàn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đến các sứ đồ. Đức Chúa Trời chỉ định Con Ngài   làm Sứ đồ; 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đấng Christ chỉ định các môn   đồ của Ngài làm mười hai sứ đồ; 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và Thánh Linh chỉ định một   nhóm người (ngoài mười hai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người) làm các sứ đồ xây dựng Thân Thể. Vị sứ đồ   đầu tiên là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             độc nhất vô nhị; chỉ có một   mình Ngài. Mười hai sứ đồ cũng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thuộc về một hàng ngũ riêng;   chỉ có mười hai người. Nhưng có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một lớp sứ đồ khác được   Thánh Linh lựa chọn, và bao lâu Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh còn được xây dựng và   Thánh Linh còn hiện diện trên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đất, thì việc lựa chọn và   sai phái loại sứ đồ này cũng sẽ còn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong Lời Đức Chúa Trời, ngoài Ba-na-ba và   Phao-lô chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ta còn thấy nhiều sứ đồ   khác. Có nhiều người thuộc về hàng sứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đồ mới được Linh của Đức   Chúa Trời lựa chọn và sai đi. Trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             1 Cô-rin-tô 4:9 chúng ta đọc thấy: “Đức Chúa Trời   đã phơi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng tôi là các sứ đồ ra   sau rốt”. Những chữ “chúng tôi là các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ” chỉ về ai? Đại từ   “chúng tôi” ngụ ý có ít nhất một sứ đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nữa ngoài người viết. Nếu   nghiên cứu văn mạch, chúng ta thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             A-bô-lô ở với Phao-lô khi   ông viết (c. 6) và Sốt-then là người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cùng viết các Thư tín với   Phao-lô. Cho nên dường như sáng tỏ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rằng “chúng tôi” ở đây chỉ về   hoặc A-bô-lô hoặc Sốt-then, hay 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cả hai. Như vậy hoặc một   trong hai người hoặc cả hai người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Rô-ma 16:7: “Chào thăm   An-trô-ni-cơ và Giu-nia, tức là bà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             con và bạn đồng tù với tôi,   nổi tiếng giữa các sứ đồ”. Mệnh đề 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “nổi tiếng (hay: nổi bật) giữa   các sứ đồ” không có nghĩa là họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được các sứ đồ xem là nổi bật mà là giữa vòng các   sứ đồ, họ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người nổi bật. Ở đây   không những chúng ta có hai sứ đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác, nhưng có hai sứ đồ nổi   bật khác. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:6: “Chúng   tôi vì là sứ đồ của Christ”. Chữ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “chúng tôi” ở đây chỉ rõ về   những người viết thư Tê-sa-lô-ni-ca, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tức là Phao-lô, Sin-vanh và   Ti-mô-thê (1:1); câu này cho thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hai đồng công trẻ tuổi của   Phao-lô cũng là sứ đồ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             1 Cô-rin-tô 15:5-7: “Ngài đã   hiện ra cho Sê-pha, sau lại hiện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ra cho mười hai sứ đồ. Rồi đó   cùng một lúc Ngài hiện ra cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hơn năm trăm anh em... Đoạn   Ngài hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hết thảy các sứ đồ”. Ngoài   mười hai sứ đồ còn có một nhóm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được biết đến là “hết thảy   các sứ đồ”. Như vậy, rõ ràng là ngoài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai người còn có những   sứ đồ khác nữa. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Phao-lô không bao giờ tuyên   bố ông là sứ đồ sau cùng và sau 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ông không còn ai khác. Chúng   ta hãy đọc cẩn thận những gì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ông nói: “Rốt lại, Ngài cũng   hiện ra cho tôi, như cho một thai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sanh non vậy. Vì tôi nhỏ hơn   hết trong các sứ đồ, không đáng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             gọi là sứ đồ” (1 Côr.   15:8-9). Xin lưu ý cách Phao-lô dùng những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             từ “rốt lại” và “nhỏ nhất”.   Ông không nói ông là sứ đồ sau 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cùng; ông chỉ nói ông là sứ   đồ nhỏ nhất. Nếu ông là sứ đồ sau 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cùng, không thể có thêm ai   sau ông, nhưng ông chỉ là sứ đồ nhỏ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong sách Khải-thị có nói về   hội thánh Ê-phê-sô: “Ngươi... 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đã từng thử nghiệm những kẻ   tự xưng là sứ đồ mà không phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là sứ đồ, đã thấy họ là giả   dối” (2:2). Qua câu này dường như rõ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ràng các hội thánh đầu tiên   cho là có thể có những sứ đồ khác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngoài mười hai người ban đầu,   vì khi sách Khải-thị được viết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ra, Giăng là sứ đồ duy nhất   còn sống trong mười hai sứ đồ, và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vào thời điểm ấy ngay cả   Phao-lô cũng đã tuận đạo. Nếu chỉ có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai sứ đồ, và Giăng là   người duy nhất còn lại, thì không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ai khờ dại đến nỗi tự cho   mình là sứ đồ, không ai khờ dại đến 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nỗi bị lừa dối, và như vậy   thì đâu cần phải thử nghiệm. Nếu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Giăng là sứ đồ duy nhất thì   việc thử nghiệm thật dễ dàng! Bất 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cứ ai không phải là Giăng   thì không phải là sứ đồ! 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Ý NGHĨA CỦA CHỨC VỤ SỨ ĐỒ 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Vì ý nghĩa của từ ngữ “sứ đồ”   là “người được sai đi”, ý nghĩa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của chức vụ sứ đồ thật đơn giản, tức là chức vụ của   người được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sai đi. Các sứ đồ chủ yếu   không phải là những người có các ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ đặc biệt, mà là những người   có sứ mạng đặc biệt. Người nào 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được Đức Chúa Trời sai đi   cũng là sứ đồ. Nhiều người được Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời kêu gọi không có   nhiều ân tứ như Phao-lô, nhưng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nếu họ nhận được một sứ mạng   từ Đức Chúa Trời thì họ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những sứ đồ thật y như   Phao-lô. Các sứ đồ là những người có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ân tứ, nhưng chức vụ sứ đồ của   họ không dựa trên ân tứ, mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dựa trên sứ mạng của họ. Dĩ   nhiên Đức Chúa Trời không sai ai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đi mà không trang bị người ấy,   nhưng sự trang bị không cấu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tạo chức vụ sứ đồ. Nếu Đức Chúa Trời muốn sai   phái một con 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người hoàn toàn chưa được trang   bị, người ấy vẫn là một sứ đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             y như một sứ đồ được trang bị đầy đủ, vì chức vụ   sứ đồ không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dựa trên khả năng con người   nhưng trên sự ủy nhiệm thần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thượng. Người nào đảm nhận   chức vụ sứ đồ chỉ vì nghĩ mình có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các ân tứ hay khả năng cần   thiết là người làm chuyện vô ích. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chỉ có ân tứ và khả năng thì   không đủ để làm cho một người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trở thành sứ đồ. Để trở   thành một sứ đồ, điều kiện cần có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không gì kém hơn là Đức Chúa   Trời, ý muốn của Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời và sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Không ai có   thể đạt được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ sứ đồ nhờ những điều   kiện thiên nhiên hay những điều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kiện khác; một người là sứ đồ   vì Đức Chúa Trời làm cho người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấy trở thành sứ đồ. Một người   có giá trị thuộc linh hay không, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và công tác của người ấy có   vì cứu cánh thuộc linh nào hay 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không, đều tùy thuộc vào sự   sai phái của Đức Chúa Trời. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “Người Đức Chúa Trời sai   phái” phải là đặc tính chính yếu của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             việc bước vào sự phục vụ Ngài, và của mọi hoạt động   của chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúng ta hãy mở ra Kinh   Thánh. Trong Lu-ca 11:49 chúng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ta đọc thấy rằng: “Ta sẽ sai   tiên tri và sứ đồ đến cùng họ, họ sẽ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giết kẻ nầy, bắt bớ kẻ kia”.   Từ Sáng-thế Ký đến Ma-la-chi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta không thấy ai được gọi là sứ đồ cách rõ   ràng; nhưng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người được nhắc đến ở đây là các sứ đồ sống   giữa thời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             A-bên và Xa-cha-ri (c. 51).   Vì vậy, rõ ràng là thậm chí vào thời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cựu Ước Đức Chúa Trời cũng   có các sứ đồ của Ngài. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa chúng ta phán: “Quả thật,   quả thật, Ta nói cùng các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngươi, tớ chẳng lớn hơn chủ,   sứ giả (Hi-văn: sứ đồ) cũng chẳng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lớn hơn đấng sai mình”   (Giăng 13:16). Ở đây chúng ta có lời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             định nghĩa của từ ngữ “sứ đồ”.   “Sứ đồ” ngụ ý là được sai đi — 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chỉ có vậy; và đó là tất cả.   Dầu ý định của con người có tốt đến 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đâu chăng nữa cũng không thể   thay thế sự ủy nhiệm thần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thượng. Ngày nay những người được Chúa sai đi để   rao giảng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phúc-âm và thành lập các hội   thánh tự xưng mình là các giáo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sĩ, chứ không xưng là sứ đồ;   nhưng từ ngữ “giáo sĩ” (mis sion ary) 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mang ý nghĩa rất giống với   “sứ đồ” (apostle), là “người được sai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đi”. Mission ary (giáo sĩ)   là hình thức tiếng La-tinh của từ ngữ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tương đương apostolos trong   tiếng Hi-lạp. Vì ý nghĩa của hai từ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngữ này giống y như nhau,   nên tôi không thấy lý do tại sao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người thật được   sai đi ngày nay lại thích xưng mình là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             CÁC SỨ ĐỒ VÀ CHỨC VỤ CUNG ỨNG 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             “Nhưng đã ban ơn cho mỗi người   trong chúng ta theo lượng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự ban tứ của Đấng Christ.   Cho nên có phán rằng: Khi Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lên nơi cao thì dẫn theo những   kẻ bị bắt làm phu tù, và ban ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ cho loài người. (Vả, đã   phán rằng ‘Ngài lên,’ há chẳng phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có nghĩa là Ngài cũng đã xuống   trong các miền thấp dưới đất 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sao? Đấng đã xuống chính là   Đấng đã lên trên cả các từng trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để làm cho đầy dẫy mọi sự).   Ngài ban cho người này làm sứ đồ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kẻ kia làm tiên tri, người   khác làm kẻ giảng Tin-lành (hay: 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phúc-âm), kẻ khác nữa làm mục   sư và giáo sư, cốt để làm cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thánh đồ được nên trọn vẹn về   công việc của chức dịch (hay: 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ cung ứng), và về sự gây dựng thân thể của   Đấng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Christ, cho đến chừng chúng   ta thảy đều đạt đến sự hiệp một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của đức tin và của sự thông biết Con Đức Chúa Trời   mà nên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bậc thành nhơn, được tầm thước   vóc giạc theo sự đầy đủ của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đấng Christ” (Êph. 4:7-13). 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Có nhiều chức vụ liên quan đến   sự phục vụ Đức Chúa Trời, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng Ngài đã lựa chọn một số   người cho chức vụ đặc biệt là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cung ứng Lời để xây dựng Thân Thể Đấng Christ. Vì   chức vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             này khác với các chức vụ   khác, nên chúng ta gọi là “chức vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cung ứng”. Chức vụ ấy được   phó thác cho một nhóm người trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đó chính yếu là các sứ đồ.   Đó không phải là chức vụ của một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người, hay một chức vụ của   “mọi người”, mà là chức vụ dựa trên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các ân tứ của Thánh Linh và   sự hiểu biết Chúa trong kinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Sứ đồ, tiên tri, người giảng   phúc-âm, người chăn và giáo sư 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là các ân tứ Chúa ban cho Hội   Thánh Ngài để phục vụ trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ cung ứng. Nói đúng   ra, người chăn và giáo sư là một ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ, chứ không phải hai hai   ân tứ khác biệt, vì dạy dỗ và chăn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dắt liên hệ mật thiết với   nhau. Khi liệt kê các ân tứ, thì sứ đồ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tiên tri và người giảng phúc-âm được đề cập cách   riêng rẽ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong khi người chăn và giáo   sư được liên kết với nhau. Hơn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nữa, ba ân tứ đầu đều được từ   ngữ “some” (một số người) đi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trước, trong khi từ ngữ “một   số” đi trước nhóm chữ người chăn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và giáo sư. Như vậy, “một số   người làm sứ đồ,” “một số người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             làm tiên tri,” “một số người   làm người giảng phúc-âm,” và “một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             số người làm người chăn và   giáo sư”, chứ không phải “một số 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người làm người chăn và một   số người làm giáo sư”. Sự kiện từ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ngữ “một số người” chỉ được   dùng bốn lần trong bản liệt kê này 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho thấy chỉ có bốn loại người được đề cập. Người   chăn và giáo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sư tuy là hai nhưng là một. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chăn dắt và dạy dỗ có thể được xem là một chức vụ,   vì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người dạy dỗ cũng phải chăn dắt, và người   chăn cũng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phải dạy dỗ. Hai loại công   tác này có liên hệ hỗ tương. Hơn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nữa, từ ngữ “người chăn”   không thấy được ứng dụng cho ai ở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một nơi nào khác trong Tân Ước,   nhưng từ ngữ “giáo sư” được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dùng vào bốn trường hợp khác. Trong Tân Ước chúng   ta thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có chỗ đề cập đến sứ đồ (chẳng   hạn như Phao-lô), tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             (chẳng hạn như A-ga-bút),   người giảng phúc-âm (chẳng hạn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             như Phi-líp), và giáo sư (chẳng   hạn như Ma-na-hen), nhưng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta không tìm thấy người   nào trong Lời Đức Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được gọi là người chăn. Điều   này khẳng định sự kiện người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chăn và giáo sư là một loại   người mà thôi. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Các giáo sư là những người nhận được ân tứ dạy dỗ.   Đó 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không phải là ân tứ phép lạ,   mà là ân tứ ân điển, điều này giải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thích sự kiện ân tứ này không được đề cập trong bản   liệt kê 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những ân tứ phép lạ trong 1 Cô-rin-tô 12:8-10, mà   được đề cập 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong bản liệt kê những ân tứ   ân điển trong Rô-ma chương 12. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ân tứ ân điển làm cho người   có ân tứ ấy hiểu sự dạy dỗ của Lời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời, nhận rõ được   mục đích của Ngài và do đó trang 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bị họ để dạy dỗ dân Ngài về   những vấn đề giáo lý. Hội thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tại An-ti-ốt có vài người được   trang bị như vậy, trong số đó có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Phao-lô. Nhờ Đức Chúa Trời hành   động mà những người như 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vậy được “đặt... trong hội   thánh”, và vị trí của họ ở kế bên vị 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trí của các tiên tri. Giáo   sư là cá nhân nhận được ân tứ dạy dỗ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             từ Đức Chúa Trời, và được   Chúa ban cho Hội Thánh Ngài để 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             xây dựng Hội Thánh. Công tác   của giáo sư là giải thích cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người khác những lẽ thật đã   được bày tỏ cho mình, để dẫn dân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của Đức Chúa Trời đến chỗ hiểu   biết Lời Ngài, khích lệ họ tự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tìm kiếm và nhận lãnh khải   thị thần thượng qua Kinh Thánh. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Lãnh vực công tác của họ chính yếu ở giữa các con   cái Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, dầu nhiều lúc họ cũng dạy dỗ người   chưa được cứu (1 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Tim. 4:11; 6:2; 2 Tim. 2:2;   Công 4:2-18; 5:21, 25, 28, 42). Công 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tác của họ có tính cách giải   nghĩa hơn là khải thị, trong khi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công tác của các tiên tri có   tính cách khải thị hơn là giải nghĩa. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Họ tìm cách dẫn các tín đồ đến   chỗ hiểu biết lẽ thật thần 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thượng, và tìm cách dẫn người   chưa tin đến chỗ hiểu biết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Những người rao giảng   phúc-âm cũng là ân tứ Chúa ban cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Hội Thánh Ngài, nhưng chúng   ta không biết chính xác họ có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những ân tứ cá nhân gì. Lời   Đức Chúa Trời không nói về ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             rao giảng phúc-âm, nhưng nói   đến Phi-líp là một người rao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giảng phúc-âm (Công 21:8), và Phao-lô vào một dịp   đã khích lệ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ti-mô-thê làm công tác của   người rao giảng phúc-âm và lo tròn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức dịch của mình (2 Tim. 4:5). Ngoài ba trường   hợp này, danh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             từ “người rao giảng phúc-âm” không tìm thấy trong   Kinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh, dầu chúng ta thường gặp động từ ra từ cùng   một gốc với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong Lời Đức Chúa Trời, vị trí của các tiên tri   được định 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nghĩa rõ ràng hơn so với vị trí của các giáo sư   và người rao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giảng phúc-âm. Nói tiên tri được đề cập giữa vòng   các ân tứ ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điển (Rô 12:6), và giữa vòng các ân tứ phép lạ   chúng ta lại thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có ân tứ này (1 Côr. 12:10). Đức Chúa Trời đã đặt   các tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong Hội Thánh hoàn vũ (1   Côr. 12:28), nhưng Ngài cũng ban 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các tiên tri cho chức vụ   cung ứng (Êph. 4:11). Có ân tứ tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lẫn chức vụ tiên tri. Nói   tiên tri vừa là ân tứ phép lạ, vừa là ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ ân điển. Tiên tri vừa là người Đức Chúa Trời đặt   trong Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh Ngài để giữ chức vụ   tiên tri vừa là người Chúa ban cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Hội Thánh Ngài vì chức vụ cung ứng. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong bốn loại người có ân tứ   mà Chúa ban cho Hội Thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để xây dựng Hội Thánh, các sứ đồ thật khác với ba   loại người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kia. Vị trí đặc biệt của các sứ đồ là điều rõ   ràng đối với tất cả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người đọc Kinh Thánh.   Họ được Đức Chúa Trời ủy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiệm cách đặc biệt để thành   lập các hội thánh qua việc rao 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giảng phúc-âm, để đem khải thị từ Đức Chúa Trời đến   với dân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài, để đưa ra các quyết định về những vấn đề   liên quan đến 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giáo lý và sự quản trị, để gây dựng các thánh đồ   và phân phát 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những gì các thánh đồ dâng   hiến. Cả về mặt thuộc linh lẫn về 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mặt địa lý, phạm vi của họ   thật rộng lớn. Vị trí của họ vượt 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trổi vị trí của tiên tri và   giáo sư. Điều này thật sáng tỏ trong 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Lời Chúa: “Đức Chúa Trời đã   lập trong hội thánh: thứ nhất là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Các sứ đồ thuộc về chức vụ   cung ứng, nhưng họ thật khác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             với các tiên tri, những người   rao giảng phúc-âm và giáo sư, vì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không như ba loại người ấy,   không phải ân tứ của họ quyết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             định chức vụ của họ; tức họ   không trở nên sứ đồ nhờ nhận lãnh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Điều quan trọng chúng ta phải   lưu ý là sứ đồ là một chức vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hành chánh, không phải một   ân tứ. Chức vụ hành chánh là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều một người nhận được do   kết quả của sự ủy nhiệm; ân tứ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều một người nhận được trên cơ sở ân điển. “Ta   đã được lập 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             làm... sứ đồ” (1 Tim. 2:7).   “Ta đã được lập làm... sứ đồ” (2 Tim. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             1:11). Ở đây chúng ta thấy các sứ đồ được ủy nhiệm.   Làm một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ không tùy thuộc việc   nhận lãnh ân tứ sứ đồ, mà tùy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thuộc việc nhận sứ mạng sứ đồ.   Sứ đồ được kêu gọi cách đặc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biệt và mang một sứ mạng đặc   biệt. Về điều này sứ đồ khác với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ba loại người cung ứng kia,   dầu có thể sứ đồ nhận lãnh ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tiên tri và do đó vừa làm   tiên tri vừa làm sứ đồ. Ân tứ cá nhân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của một người cấu tạo người ấy   thành một tiên tri, nhưng sự ủy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiệm chứ không phải ân tứ   khiến người ấy thành một sứ đồ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ba loại người cung ứng kia   thuộc về chức vụ cung ứng do ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             của họ; sứ đồ thuộc về chức   vụ cung ứng không do ân tứ của họ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mà do việc họ được sai đi.   Điều kiện của ba loại người kia là sở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hữu các ân tứ; điều kiện của   sứ đồ là sở hữu các ân tứ cộng với 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sự kêu gọi và ủy nhiệm đặc biệt. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Một sứ đồ có thể là tiên tri   hay giáo sư. Nếu sử dụng ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nói tiên tri hay dạy dỗ   trong hội thánh địa phương, người ấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             làm như vậy với tư cách là   tiên tri hay giáo sư, nhưng khi sử 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dụng các ân tứ tại những nơi   khác, người ấy làm như vậy với tư 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách là sứ đồ. Chức vụ sứ đồ   nói lên việc được Đức Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sai đi để sử dụng các ân tứ của chức vụ cung ứng   tại những nơi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác nhau. Ân tứ cá nhân của   một sứ đồ thì không quan trọng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho chức vụ sứ đồ, nhưng điều   thiết yếu cho chức vụ sứ đồ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             việc được Đức Chúa Trời sai đi. Một sứ đồ có thể   sử dụng các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ân tứ thuộc linh tại bất cứ   nơi nào, nhưng không thể sử dụng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các ân tứ sứ đồ của mình, vì   một người là sứ đồ bởi chức vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hành chánh, chứ không phải bởi   ân tứ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Tuy nhiên các sứ đồ có các   ân tứ cá nhân dành cho chức vụ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cung ứng của mình. “Vả, hội   thánh tại An-ti-ốt có mấy tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và giáo sư, tức là Ba-na-ba, Si-mê-ôn   gọi là Ni-giê, Lu-si-út quê 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ở Sy-ren, Ma-na-hen là người đồng dưỡng với vua   chư hầu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Hê-rốt, cùng Sau-lơ. Đương   khi họ phụng sự Chúa và kiêng ăn, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh Linh phán rằng: Hãy biệt   riêng Ba-na-ba và Sau-lơ cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ta để làm công việc Ta đã gọi họ làm” (Công   13:1-2). Năm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người này có ân tứ tiên tri   và dạy dỗ, một là ân tứ phép lạ, và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một là ân tứ ân điển. Trong   nhóm năm người ấy, hai người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được Linh sai đến những miền   khác, và ba người được để lại tại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             An-ti-ốt. Như chúng ta đã thấy,   hai người được sai đi về sau 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được gọi là sứ đồ. Họ không nhận lãnh ân tứ sứ   đồ, nhưng họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật sự nhận lãnh sự ủy nhiệm   để làm sứ đồ. Ân tứ của họ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khiến họ đủ điều kiện làm   tiên tri và giáo sư, nhưng sự ủy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhiệm họ nhận được khiến họ   đủ điều kiện làm sứ đồ. Ba người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ở lại tại An-ti-ốt vẫn là   các tiên tri và giáo sư chứ không phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là sứ đồ, đơn giản là vì họ   không được Linh sai đi. Hai người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trở thành sứ đồ, không phải   vì họ nhận lãnh một ân tứ nào 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác thêm vào ân tứ tiên tri   và dạy dỗ, mà vì họ nhận thêm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một chức vụ hành chánh là kết   quả việc họ được ủy nhiệm. Các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ân tứ của cả năm người đều   giống nhau, nhưng hai người nhận 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được sự ủy nhiệm thần thượng   thêm vào các ân tứ của mình, và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             điều đó làm cho họ đủ điều   kiện thi hành chức vụ sứ đồ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Vậy thì tại sao Lời Đức Chúa Trời chép: “Ngài ban   cho 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người này làm sứ đồ”? Vấn đề ở đây không phải chức   vụ sứ đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là ân tứ được ban cho một sứ   đồ, mà là ân tứ được ban cho Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh; không phải ân tứ thuộc   linh được ban cho một người, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mà là một người có ân tứ được   ban cho Hội Thánh. Ê-phê-sô 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             4:11 không nói Chúa ban ân tứ   sứ đồ cho một người nào, mà 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nói Ngài ban những người làm   sứ đồ cho Hội Thánh của Ngài. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Người ta nhận được ân tứ của Linh để có đủ điều   kiện trở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thành tiên tri và giáo sư,   nhưng chưa từng có ai nhận lãnh ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ thuộc linh để đủ điều kiện   làm sứ đồ. Các sứ đồ là loại người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mà Hội Thánh nhận được như ân tứ của Chúa để xây   dựng Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Các ân tứ được đề cập trong phân đoạn này không   phải là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các ân tứ được ban cho con người cách cá nhân, mà   là các ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa ban cho Hội Thánh Ngài, và các ân tứ được đề   cập ở đây 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là những công tác viên có ân   tứ mà Chúa của Hội Thánh ban 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho Hội Thánh Ngài để xây dựng   Hội Thánh. Đầu ban cho Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh là Thân Thể Ngài những   con người để phục vụ Thân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thể và xây dựng Thân Thể. Chúng   ta phải phân biệt những ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ được Thánh Linh ban cho   các cá nhân với những ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa ban cho Hội Thánh Ngài.   Điều trước được   ban cho tín đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách cá nhân; điều sau được   ban cho tín đồ cách tập thể. Điều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được đề cập trước là những   ân tứ, điều được đề cập sau là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những con người. Ân tứ mà   Linh ban cho các cá nhân là ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trang bị cho họ để phục vụ   Chúa trong việc nói tiên tri, dạy dỗ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nói các thứ tiếng và chữa bệnh;   các ân tứ Chúa ban cho Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh Ngài tức Thân Thể là   những con người sở hữu các ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “Vậy, người này nhờ Thánh   Linh ban cho lời khôn ngoan, kẻ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kia cũng nhờ một Thánh Linh   ấy ban cho lời tri thức, kẻ khác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nữa cũng nhờ một Thánh Linh   ấy mà được đức tin, kẻ khác nữa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng nhờ một Thánh Linh ấy mà được ân tứ chữa bệnh;   còn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người này thì được làm việc   quyền năng, kẻ kia thì được nói tiên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tri, người khác thì được   phân biệt các linh, kẻ nọ thì được nói các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thứ tiếng, và người khác thì được thông dịch các   thứ tiếng ấy” (1 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Côr. 12:8-10). Phân đoạn   này liệt kê cho chúng ta tất cả các ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ mà Thánh Linh ban cho   con người, nhưng không bao hàm ân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tứ sứ đồ. “Đức Chúa Trời đã lập trong hội thánh,   thứ nhứt là sứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đồ, thứ nhì là tiên tri, thứ ba là giáo sư, kế đến   kẻ làm việc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             quyền năng, rồi đến kẻ được ân tứ chữa bệnh, vùa   giúp, quản lý, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nói các thứ tiếng” (1 Côr. 12:28). Phần đầu liệt   kê các ân tứ ban 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho các cá nhân; phần hai   liệt kê các ân tứ ban cho Hội Thánh. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong phần đầu không đề cập   đến ân tứ sứ đồ; trong phần sau 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta thấy các sứ đồ đứng đầu bản liệt kê các   ân tứ được ban 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho Hội Thánh. Không phải Đức   Chúa Trời ban cho Hội Thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ân tứ làm sứ đồ, nhưng Ngài   đã ban cho Hội Thánh những con 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người là sứ đồ; và Ngài không ban các ân tứ nói   tiên tri và dạy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dỗ cho Hội Thánh Ngài,   nhưng Ngài ban cho Hội Thánh một số 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người là tiên tri và giáo sư. Đức Chúa Trời đã lập   những loại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công tác viên khác nhau trong Hội Thánh Ngài để   gây dựng Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh, một trong số đó là   các sứ đồ. Họ không đại diện cho một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             loại ân tứ nào đó, mà đại   diện cho một loại người nào đó. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Sự khác biệt giữa các sứ đồ, và các tiên tri và   giáo sư là hai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             loại người sau vừa đại diện cho các ân tứ được   Linh ban cho các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cá nhân vừa đại diện cho các ân tứ được Chúa ban   cho Hội Thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài, trong khi các sứ đồ là những người được   Chúa ban cho Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh Ngài, nhưng họ không   đại diện cho bất cứ ân tứ cá nhân, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đặc biệt nào của Linh cả. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “Đức Chúa Trời đã lập trong   hội thánh, thứ nhứt là sứ đồ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thứ nhì là tiên tri, thứ ba   là giáo sư” (1 Côr. 12:28). Đây là hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thánh nào? Hội thánh này bao   hàm mọi con cái của Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời; vì vậy, đây là Hội   Thánh hoàn vũ. Trong Hội Thánh này 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời đã lập “thứ nhứt   là sứ đồ, thứ nhì là tiên tri, thứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ba là giáo sư”. Trong 1   Cô-rin-tô 14:23 chúng ta đọc thấy “cả hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thánh nhóm lại”. Đây là hội   thánh nào? Hiển nhiên đây là hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thánh địa phương, vì Hội   Thánh hoàn vũ không thể nhóm lại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tại một địa phương. Trong hội   thánh địa phương này các anh em 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sử dụng các ân tứ thuộc linh   của mình. Người này có thi thiên, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người khác có sự dạy dỗ, người   khác nữa có sự khải thị, người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khác có tiếng lạ, người khác   nữa thông dịch tiếng lạ (14:26), 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng quan trọng hơn tất cả   các ân tứ này là ân tứ nói tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             (14:1). Trong chương mười hai, các sứ đồ đứng trước   những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người cung ứng khác, nhưng   trong chương mười bốn, các tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đứng trước. Trong Hội Thánh   hoàn vũ, các sứ đồ đứng đầu, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng trong hội thánh địa   phương, các tiên tri đứng đầu. Tại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sao các tiên tri đứng đầu   trong hội thánh địa phương, nhưng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong Hội Thánh hoàn vũ, họ   chỉ giữ vị trí thứ hai? Vì trong Hội 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thánh hoàn vũ vấn đề không   phải là ân tứ của Linh được ban 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cho cá nhân riêng lẻ, mà là   Đức Chúa Trời ban ân tứ là những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người cung ứng cho Hội Thánh, mà trong số   đó, các sứ đồ đứng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đầu; còn trong hội thánh địa   phương, vấn đề là ân tứ của Linh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ban cho cá nhân, và trong số   các ân tứ ấy, nói tiên tri là chính, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vì nói tiên tri là quan trọng   nhất. Chúng ta hãy ghi nhớ rằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ sứ đồ không phải là ân tứ ban cho cá   nhân. 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             LÃNH VỰC CÔNG TÁC CỦA CÁC SỨ   ĐỒ 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Lãnh vực công tác của sứ đồ   hoàn toàn khác với lãnh vực 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             công tác của ba loại người   cung ứng đặc biệt kia. Việc các tiên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tri và giáo sư vận dụng ân tứ   của họ trong hội thánh địa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phương được thấy qua câu: “Vả,   hội thánh tại An-ti-ốt có mấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tiên tri và giáo sư”. Anh em   có thể thấy các tiên tri và giáo sư 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tại hội thánh địa phương,   nhưng không thấy các sứ đồ, vì các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ được kêu gọi để cung ứng   tại những nơi khác, trong khi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ của tiên tri và giáo sư được giới hạn tại   một địa phương 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Về những người rao giảng   phúc-âm, chúng ta không biết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lãnh vực đặc biệt của họ, vì Lời Đức Chúa Trời   nói rất ít về họ, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng câu chuyện về Phi-líp,   người rao giảng phúc-âm, đem 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đến ít nhiều ánh sáng về loại   người cung ứng này. Phi-líp lìa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             khỏi địa phương của mình và   rao giảng tại Sa-ma-ri, nhưng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong khi ông công tác tốt tại   đó, Linh không ngự trên người 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nào được ông hoán cải cả. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Giê-ru-sa-lem tới đặt tay   trên họ Linh mới đổ ra. Điều này 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             dường như cho thấy rằng việc rao giảng phúc-âm   tại địa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phương là công tác của người giảng phúc-âm, còn   việc rao giảng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phúc-âm trên khắp thế giới là công tác của sứ đồ.   Điều này 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không hàm ý công tác của người   giảng phúc-âm nhất thiết phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giới hạn tại một nơi chốn,   nhưng có nghĩa là địa phương là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phạm vi thường xuyên của họ.   Tương tự như vậy, tiên tri 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             A-ga-bút nói tiên tri tại một nơi khác, nhưng phạm   vi công tác 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đặc biệt của ông là địa   phương của mình. 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             BẰNG CHỨNG CỦA CHỨC VỤ SỨ ĐỒ 
             | 
        
    
 
 
 
    
        
            | 
             Bằng chứng gì cho thấy một   người thật sự được Đức Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trời ủy nhiệm để làm sứ đồ?   Trong 1 Cô-rin-tô 9:1-2, Phao-lô 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bàn đến thắc mắc của chúng   ta khi ông viết cho các thánh đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tại Cô-rin-tô, và qua lời   tranh biện của ông, chúng ta thấy rõ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ sứ đồ có những thành   tích của nó. “Vì chính anh em là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ấn chứng của chức nhiệm sứ đồ   tôi trong Chúa”, dường như ông 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             viết điều này để nói rằng:   “Nếu Đức Chúa Trời không sai tôi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đến Cô-rin-tô, thì ngày nay   anh em không được cứu, và không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có hội thánh tại thành phố của   anh em”. Nếu Đức Chúa Trời 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đã kêu gọi một người làm sứ   đồ, điều đó sẽ được bày tỏ qua 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bông trái của công lao người   ấy. Bất cứ nơi nào anh em có sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ủy nhiệm của Đức Chúa Trời, nơi đó anh em có uy   quyền của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Đức Chúa Trời; bất cứ nơi nào anh em có uy quyền   của Đức 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa Trời, nơi đó anh em có   quyền năng của Đức Chúa Trời; 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và bất cứ nơi nào anh em có   quyền năng của Đức Chúa Trời, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nơi đó anh em có bông trái   thuộc linh. Bông trái công lao của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             anh em chứng minh hiệu lực của   sự ủy nhiệm mà anh em nhận 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được. Tuy nhiên điều phải   lưu ý là Phao-lô không có ý nói rằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ sứ đồ hàm ý là qua đó phải có nhiều người   hoán cải, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhưng chức vụ sứ đồ nói lên   giá trị thuộc linh đối với Chúa, vì 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Ngài không bao giờ sai ai đi   cho một mục đích kém hơn. Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhắm đến giá trị thuộc linh,   và mục tiêu của chức vụ sứ đồ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             có được điều đó. Trong trường   hợp này, người Cô-rin-tô tiêu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biểu cho những giá trị ấy.   Tuy nhiên, không phải Phao-lô nói ở 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đây: “Tôi há chẳng đã thấy   Giê-su, Chúa chúng ta sao?” Như 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vậy có phải chỉ những ai thấy   Chúa Giê-su hiển lộ trong sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phục sinh mới đủ điều kiện   làm sứ đồ? Chúng ta hãy cẩn thận 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             theo sát hướng biện luận của   Phao-lô. Trong câu 1 đặt ra bốn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             câu hỏi: (1) “Tôi há chẳng được tự do sao?” (2)   “Tôi há chẳng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phải là sứ đồ sao?” (3) “Tôi   há chẳng đã thấy Giê-su, Chúa 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta sao?” (4) “Anh em   há chẳng phải là công việc tôi 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong Chúa sao?” Đương nhiên   bốn câu hỏi này đều có câu trả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lời khẳng định, vì trường hợp   của Phao-lô đòi hỏi một câu trả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lời như vậy. Xin lưu ý rằng   khi tiếp tục sự biện luận của mình 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong câu 2, Phao-lô bỏ qua   hai câu trong bốn câu hỏi của mình 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và chỉ khai triển hai câu   kia mà thôi. Ông bỏ qua câu hỏi thứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhất và thứ ba, chọn lấy câu   hỏi thứ hai và thứ tư, liên kết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng lại với nhau. Vì mục   đích ông đang nhắm tới trong sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biện luận, ông bỏ qua hai   câu hỏi: “Tôi há chẳng được tự do 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sao?” và “Tôi há chẳng đã thấy   Giê-su, Chúa chúng ta, sao?”, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             và trả lời hai câu hỏi: “Tôi   há chẳng phải là sứ đồ sao?” và 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             “Anh em há chẳng phải là   công việc tôi trong Chúa sao?” Rõ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ràng Phao-lô tìm cách chứng   minh rằng qua phước hạnh theo 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sau công lao của ông mà sự ủy   nhiệm của ông được tỏ ra là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật, chứ không phải qua việc ông được tự do hay   đã thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trong bốn câu hỏi Phao-lô   nêu lên, ba câu liên hệ đến con 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người của ông, và một câu liên hệ đến công tác của   ông. Ba câu 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             này ở trên cùng một bình diện,   và tương đối độc lập với nhau. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Phao-lô không tranh luận rằng vì ông được tự do   và vì ông là sứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đồ, nên ông đã thấy Chúa. Ông cũng không lý luận   rằng vì ông là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ và vì ông đã thấy Chúa nên ông được tự do.   Ông cũng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không tìm cách chứng minh rằng vì ông được tự do   và ông đã 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thấy Chúa, nên ông là sứ đồ. Ông được tự do, ông   là sứ đồ và ông 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đã thấy Chúa là những sự kiện. Các sự kiện ấy   không có sự liên 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kết thiết yếu nào với nhau, nên liên kết chúng lại   là vô lý. Biện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             luận rằng chức vụ sứ đồ của Phao-lô dựa trên sự   việc ông được tự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             do thì cũng phi lý như nói rằng chức vụ ấy dựa   trên việc ông thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa. Nếu ông không tìm   cách chứng minh rằng ông có được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ sứ đồ nhờ sự kiện   ông được tự do, thì ông cũng không tìm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách chứng minh rằng ông có được chức vụ ấy nhờ   ông đã thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa. Chức vụ sứ đồ không dựa trên việc thấy Chúa   khi Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hiển lộ trong sự phục sinh. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Vậy thì ý nghĩa của 1 Cô-rin-tô 15:5-9 là gì?   “Ngài đã hiện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ra cho Sê-pha, sau lại hiện   ra cho mười hai sứ đồ. Rồi đó cùng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             một lúc Ngài hiện ra cho hơn   năm trăm anh em,... rồi Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             hiện ra cho Gia-cơ, rồi cho   hết thảy các sứ đồ. Rốt lại, Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cũng hiện ra cho tôi”. Mục   tiêu của phân đoạn này không phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             để đưa ra bằng chứng cho chức vụ sứ đồ, mà là đưa   ra bằng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chứng cho sự phục sinh của   Chúa. Phao-lô đang thuật lại sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             việc Chúa đã hiện ra cho nhiều   người khác nhau chứ không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             giảng dạy rằng việc Chúa hiện   ra có tác động gì trên những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người ấy. Sê-pha và Gia-cơ đã thấy Chúa, nhưng   trước khi thấy 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Chúa họ như thế nào thì sau   khi thấy Chúa họ vẫn y như vậy; 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             họ không trở nên Sê-pha và   Gia-cơ nhờ thấy Ngài. Chính điều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             này cũng áp dụng cho mười   hai sứ đồ và năm trăm anh  
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Việc nhìn thấy Chúa không   khiến họ trở nên các sứ đồ. Họ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mười hai sứ đồ trước khi thấy   Chúa, và vẫn là mười hai sứ đồ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sau khi thấy Chúa. Lập luận này cũng áp dụng cho   trường hợp 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Phao-lô. Sự thật là ông đã thấy Chúa, và ông là   người nhỏ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nhất trong các sứ đồ; nhưng   không phải do thấy Chúa mà ông 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trở nên người nhỏ nhất trong   các sứ đồ. Năm trăm anh em 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không phải là sứ đồ trước   khi thấy Chúa, và cũng không phải 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             là sứ đồ sau khi thấy Chúa.   Việc nhìn thấy Chúa trong sự hiển 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             lộ phục sinh của Ngài không   khiến họ trở thành các sứ đồ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Trước đó họ là các anh em,   và sau đó cũng vậy. Không chỗ nào 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             trong Lời Đức Chúa Trời dạy rằng nhìn thấy Chúa   là điều kiện 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Nhưng chức vụ sứ đồ có những   thành tích của nó. Trong 2 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Cô-rin-tô 12:11-12 Phao-lô   viết: “Tôi... cũng chẳng thua kém 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             các sứ đồ hạng nhất kia chút   nào. Thật, các dấu hiệu của một 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ đã được tỏ ra giữa anh em bằng sự nhẫn nại   mọi đàng, 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bằng các dấu kỳ phép lạ, và các việc quyền năng”.   Có nhiều 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bằng chứng cho thấy việc   Phao-lô được ủy nhiệm làm sứ đồ là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thật; và nơi nào thực sự có   sự kêu gọi làm sứ đồ thì nơi ấy sẽ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             không bao giờ thiếu dấu hiệu   của một sứ đồ. Từ phần trước 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chúng ta có thể luận ra rằng   bằng chứng cho chức vụ sứ đồ nằm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ở quyền năng nhị diện là quyền   năng thuộc linh và quyền năng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             phép lạ. Nhẫn nại là bằng chứng   lớn nhất cho quyền năng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thuộc linh, và đó là một   trong những dấu hiệu của một sứ đồ. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Khả năng bền bỉ chịu đựng dưới áp lực liên tục thử   nghiệm 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thực tại của sự kêu gọi làm   sứ đồ. Một sứ đồ thật cần “nhờ cả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mọi quyền năng mà anh em được   thêm lực lượng y theo đại 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             năng của vinh hiển Ngài hầu   được đủ thứ nhẫn nại, kiên khổ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             cách vui vẻ” (Côl. 1:11). Thật vậy, chức vụ sứ đồ   phải có “cả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             mọi quyền năng y theo đại   năng của vinh hiển Ngài” mới sinh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             ra “đủ thứ nhẫn nại, kiên khổ   cách vui vẻ”. Nhưng thực tại của 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chức vụ sứ đồ của Phao-lô không chỉ được chứng thực   bởi sự 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             kiên nhẫn chịu đựng dưới áp   lực mãnh liệt và dai dẳng, mà còn 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             được chứng thực bởi quyền năng làm phép lạ mà ông   sở hữu. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Quyền năng làm phép lạ để   thay đổi hoàn cảnh trong thế giới 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             vật lý là biểu hiện cần thiết   cho thấy chúng ta có sự hiểu biết 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             về Đức Chúa Trời trong lãnh   vực thuộc linh, và điều này không 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             NẾP SỐNG HỘI THÁNH CƠ-ĐỐC   BÌNH THƯỜNG 
             | 
        
    
 
 
    
        
            | 
             chỉ áp dụng cho những xứ ngoại   đạo mà còn cho mọi xứ sở. 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Người nào tự xưng là người   được Đức Chúa Trời toàn năng sai 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             đi mà bất lực trước hoàn cảnh thách thức quyền   năng của Ngài 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thì nơi người ấy có sự mâu   thuẫn đáng buồn. Không phải tất cả 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             những người có thể làm việc   quyền năng đều là sứ đồ, vì ân tứ 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             chữa bệnh và làm phép lạ được ban cho các chi thể   của Thân 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Thể (1 Côr. 12:28) là những   người không có sự ủy nhiệm đặc 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             biệt, nhưng quyền năng làm   phép lạ cũng như quyền năng 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             thuộc linh là một phần trang   bị cho tất cả những ai thật được 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             Phụ nữ có vị trí gì giữa   vòng các sứ đồ không? Kinh Thánh 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             bày tỏ là có. Trong mười hai   sứ đồ được Chúa sai đi không có 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người nữ nào, nhưng có một   người nữ được đề cập trong số các 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             sứ đồ được Linh sai đi sau   khi Chúa thăng thiên. Rô-ma 16:7 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             nói về hai sứ đồ nổi bật là   An-trô-ni-cơ và Giu-nia. Những 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             người có thẩm quyền đáng tin cậy đều đồng ý rằng   “Giu-nia” là 
             | 
        
    
 
    
        
            | 
             tên của phụ nữ. Vì thế, ở   đây chúng ta có một chị em làm sứ đồ 
             |