Công vụ 9:25; 2 Cô-rinh-tô 11:32, 33,
Theo lời kể của Lu-ca, sự thù địch đầu tiên mà Phao-lô trải qua sau khi cải đạo là vụ ám sát có chủ đích của người Do Thái tại Đa-mách (Công vụ 9:23–25). Chúng ta đọc rằng các môn đồ đã thả Phao-lô trong một cái giỏ xuống tường thành vào ban đêm để giúp ông trốn thoát. Thật là một cách nhục nhã để rời khỏi thành phố mà ông đã từng tiếp cận với lòng kiêu hãnh tôn giáo và lòng nhiệt thành giết người. Tại sao ông không được giải thoát một cách kỳ diệu như Phi-e-rơ khỏi nhà tù trong Công vụ 12? Tại sao ông phải rời khỏi thành phố theo cách nhục nhã này?
Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong những câu trước. Ở đó, Chúa phán với A-na-nia: "Ta sẽ cho người ấy thấy phải chịu đau khổ biết bao vì danh ta" (Công vụ 9:16). Trong 2 Cô-rinh-tô 11, Phao-lô nhắc lại sự việc này một lần nữa. Người Cô-rinh-tô có nguy cơ khinh thường Phao-lô vì theo quan điểm của họ, ngoại hình, thái độ và chức vụ của ông thiếu những đặc điểm của một sứ đồ. Họ ngưỡng mộ những người "mặc lấy hình thức sứ đồ của Đấng Christ" bằng cách tự khen mình, khoe khoang quá mức và sử dụng tài hùng biện và lời lẽ hùng hồn. Khi làm như vậy, họ buộc Phao-lô phải trở thành kẻ ngu ngốc vì ông phải làm những gì chỉ những kẻ ngu ngốc mới làm: Ông phải nói về chính mình (2 Cô-rinh-tô 11:16; 12:11).
Để chứng tỏ rằng ông "không hề thua kém những sứ đồ lỗi lạc nhất [tức là những sứ đồ tự phong] được họ ca ngợi hết lời", Phao-lô bắt đầu khoe khoang về bản thân mình. Vinh quang của ông bao gồm, như ông nói, "trong lao khổ..., trong tù đày..., trong đòn roi..., trong nguy hiểm đến tính mạng" (2 Cô-rinh-tô 11:5, 23). Sứ đồ kể lại một danh sách dài những đau khổ. Và ông kết thúc danh sách này bằng sự cố ở Damascus khi ông bị thả từ tường thành xuống trong một chiếc thúng, mặc dù sự cố này xảy ra ngay từ đầu chức vụ của ông. Chúa đã chỉ cho tôi tớ của Ngài ngay từ đầu rằng đau khổ là phần của một tôi tớ và sứ đồ trung thành (so sánh thêm 2 Cô-rinh-tô 6:4–10; 12:12). Vì vậy, Phao-lô đã học được rằng cuộc sống của ông tiếp tục khác sau khi cải đạo so với trước đây. Không phải từ thành công này đến thành công khác như trước (so sánh Phi-líp 3:4–6). Ngay từ đầu, cuộc sống của ông là con đường “bị bỏ rơi” và “thoát hiểm” – đối với ông, nó liên tục đi xuống, đi xuống, đi xuống.
Nhưng tại sao Phao-lô phải học điều này sớm như vậy? Chúa muốn dạy ông rằng sức mạnh của ông sẽ không nằm ở việc tin tưởng vào bản thân và những phẩm chất và khả năng nổi bật của mình, mà nằm ở nhận thức về sự yếu đuối của mình. Theo cách này, Phao-lô có thể được giao phó những sự mặc khải cao nhất và ông thậm chí còn được đưa lên tầng trời thứ ba – nhưng trong mắt mình, ông vẫn luôn là Phao-lô, “kẻ bé mọn” và không tự coi mình là cao như “những sứ đồ (giả) tuyệt vời nhất”. Ông đã học cách nói: “Vì vậy, tôi sẽ vui mừng hơn nhiều về những điểm yếu của mình, để sức mạnh của Đấng Christ có thể ngự trên tôi. Vì lý do này, tôi vui mừng trong sự yếu đuối, trong sự sỉ nhục, trong sự gian khổ, trong sự bắt bớ và trong sự khốn cùng vì Đấng Christ, vì khi tôi yếu đuối, thì tôi mạnh mẽ” (2 Cô-rinh-tô 12:9,10).
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta, giống như các môn đồ, có muốn ngồi trên ngai vàng bên phải và bên trái Chúa trong vương quốc của Người không? Vậy thì chúng ta cũng phải chấp nhận câu hỏi của Chúa: “Các ngươi có thể uống chén [tức là chén đau khổ] mà Ta sắp uống không?” (Ma-thi-ơ 20:21, 22). Hay chúng ta, giống như người Cô-rinh-tô, muốn cai trị trong hội thánh bằng cách làm việc cho vinh quang của riêng mình? Vậy thì chúng ta nên nhớ rằng số phận của một người hầu việc thì khác (1 Cô-rinh-tô 4:8–13). Thay vì khoe khoang về bản thân, tin cậy vào sức mạnh của chính mình và mong muốn những điều cao cả cho bản thân, chúng ta hãy chấp nhận sự yếu đuối của chính mình và hoàn toàn trông cậy vào ân điển của Đức Chúa Trời. Đây không phải là lúc để các tôi tớ của Chúa cai trị, mà là lúc để bị bỏ rơi và trốn thoát. Sự yếu đuối của chúng ta là cơ hội cho quyền năng của Đức Chúa Trời. “Vì,” Chúa Jêsus phán, “ngoài ta các ngươi chẳng làm được GÌ CẢ” (Giăng 15:5)